mở bài phân tích tràng giang

Tháng Sáu 16, 2016 Tháng Năm 18, 2021 admin khối 12 Miễn bình luận trên Bài văn mẫu:Phân tích phong cách Nguyễn Tuân trong bài ''Người lái đò sông Đà" Bài văn mẫu:Phân tích phong cách Nguyễn Tuân trong bài "Người lái đò sông Đà" Các em học sinh có… Hyundai Solati 16 Chỗ - Hyundai Kiên Giang - 0915878081 Tay lái 3 chấu cách điệu, tích hợp các nút bấm điều khiển, người lái có thể dễ dàng điều chỉnh các bản nhạc với bảng điều khiển trung tâm tích hợp màn hình TFT và đầu DVD với mức độ giải trí cao nhất. phân tích bài thơ trang giang 02 Huian là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời kỳ: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Nam thủ khoa đã chính thức lên tiếng về bài Văn gây tranh cãi của mình.. Thời gian qua, CĐM xôn xao về bài Văn dài 10 trang phân tích bài thơ Sóng của thủ khoa khối D14 năm 2020. Người được nhắc đến là Võ Lập Phúc.Hiện tại, 10x đang là sinh viên ngành Quốc tế học của trường ĐH Sư phạm TP.HCM. Hôm nay, PPE.edu.vn sẽ giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Phân tích nhân vật Dế Mèn trong truyện Bài học đường đời đầu tiên. Phân tích nhân vật Dế Mèn Tài liệu bao gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất dành cho học sinh lớp 6. Một mở bài bài văn nghị luận hay là mở bài ngắn gọn, súc tích, nêu rõ được nội dung vấn đề và đảm bảo tính sáng tạo, lôi cuốn người đọc. Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận 14 Tháng 10, 2019 [FULL] Tổng hợp công thức vật lý 12 chương 1 tiarusgurea1979. Văn mẫu lớp 11 Phân tích khổ 1 Tràng Giang của Huy Cận tuyển chọn 15 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết hay nhất. Qua đó giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý ôn luyện trau dồi vốn ngôn ngữ để biết cách viết bài văn phân tích hay để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Khổ 1 Tràng giang tuy chỉ có vài câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện rõ được bức tranh sông nước mênh mông cùng với tâm tình của người thi sĩ. Tất cả các hình ảnh được nhắc đến mặc dù gần gũi nhưng lại hiện lên rất buồn và không có sức sống dưới ngòi bút của Huy cận. Và để hiểu rõ hơn về nội dung đoạn thơ này, mời các bạn cùng theo dõi 15 bài văn mẫu dưới đây nhé. TOP 14 bài Phân tích khổ 1 Tràng Giang Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 Tràng Giang Phân tích khổ đầu Tràng giang Phân tích Tràng giang khổ 1 Phân tích Tràng Giang khổ 1 Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang I. Mở bài Giới thiệu về tác giả Huy Cận và tác phẩm Tràng giang Khổ thơ đầu mở ra nỗi sầu nhân thế của tác giả với không gian thiên nhiên bất tận. II. Thân bài * Hoàn cảnh sáng tác bài thơ – Khi tác giả đứng trước sông Hồng vào một chiều thu năm 1939, khi tròn hai mươi tuổi, ở bờ Nam bến Chèm, cùng nỗi sầu vô tận trong tâm hồn. * Giá trị nội dung Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ của quê hương, ẩn sau nỗi buồn là tình yêu quê hương tha thiết. Hiện lên đối lập giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ mênh mông là cái tôi nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng. Nỗi buồn, cô đơn, sầu muộn vô cùng của con người trước thiên nhiên bao la. => Tác giả thể hiện niềm khao khát được hòa nhập với con người, với thiên nhiên, kín đáo đặt trong đó tình yêu đất nước khi con người sống giữa quê hương mà cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cô đơn trên chính quê hương ấy => Cảm xúc của người dân mất nước. * Giá trị nghệ thuật Bài thơ được kết hợp giữa lối thơ cổ điển và hiện đại, thể thơ thất ngôn, chất thơ Đường nhưng được kết hợp với cái tôi của thơ mới. Hình ảnh được gợi lên trong thơ vô cùng trong sáng, giàu xúc cảm. Chất thơ Đường thấm đượm từ nhan đề, thể thơ, thi tứ sự lẻ loi của con người trước tạo vật, vũ trụ to lớn, các bút pháp nghệ thuật như đối ngẫu, tune đối. * Phân tích khổ 1 – Tác giả đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng nước mênh mông của sông Hồng, tạo nên những hình ảnh vừa chân thực lại vô cùng giàu sức gợi. Một dòng sông lững lờ trôi với những cơn sóng gợn, với chiếc thuyền nhỏ và một cành củi khô giữa dòng. Hình ảnh “sóng gợn” gợi lên hình ảnh sống nước mênh mang, những con sóng gợn lăn tăn vỗ lên mặt sông => Nỗi buồn chập chùng trong lòng người thi sĩ. Hai từ “tràng giang” là từ Hán Việt, với hai âm “ang” tạo nên tiếng vọng cho câu thơ, vừa gợi lên một dòng sông dài rộng và cổ kính. Từ láy “điệp điệp” Những con sóng cứ nối nhau liên tiếp =>Nỗi buồn miên man, không nguôi trong lòng tác giả, một nỗi buồn cụ thể. – Một con thuyền xuất hiện giữa dòng nước mênh mông + Con thuyền không đảo chèo, ngược sóng mà buông thõng mái chèo, “xuôi mái”, thụ động, mặc dòng nước đưa đẩy. => Con thuyền xuất hiện thật nhỏ bé giữa dòng sông, lênh đênh và vô định. => Nghệ thuật đối “điệp điệp -song tune” gợi lên nỗi buồn nhân thế đang lan trong tâm hồn Huy Cận, chính ông cũng như con thuyền kia, bơ vơ giữa sóng nước cuộc đời, buông xuôi, mặc cho dòng đời xô đẩy. – Hình ảnh “Thuyền về … ngả” Hình ảnh thường xuất hiện trong thơ văn Thuyền và nước tưởng gặp nhau, hứa hẹn cùng nhau nhưng ở đây, sự gặp gỡ chỉ là phút chốc, để rồi lại chia lìa đôi ngả. Hình ảnh “thuyền về nước lại” gợi lên cảnh chia li, xa cách. “Sầu trăm ngả” Mối sầu muôn dặm, to lớn, rộng khắp. – Hình ảnh “Củi …mấy dòng” Đầu tiên là nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước. Nhấn mạnh sự nhỏ bé, đơn độc của một cành củi nhỏ giữa sóng nước bao la. “Cành củi khô” Gợi lên sự khô héo, không còn sức sống lại ít ỏi “Mấy dòng” Vừa gợi lên cảnh sông nước mênh mông, vừa gợi lên hình ảnh của dòng đời, vô số bước đường đi nhưng không biết chọn hướng nào mà bước tới. =>Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước mênh mông => Con người bơ vơ giữa cuộc đời, mang trong mình nỗi sầu muộn không nguôi. – Tác giả đã sử dụng hiệu quả những phép đối trong khổ thơ buồn điệp điệp – nước tune tune, sầu trăm ngả- lạc mấy dòng cùng các từ láy => tạo nên sự tương phản lớn giữa cá thể lẻ loi, cô đơn với vũ trụ mênh mông. * Kết luận chung Khổ thơ gợi lên nỗi buồn sâu lắng của tác giả trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, gợi lên sự chia ly, xa cách giữa những con người, không có sự giao hoa, đặc biệt tác giả muốn nhận mạnh nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, vô định trước cuộc đời. Nghệ thuật Huy Cận đặc biệt sử dụng thành công các hình ảnh gợi tả, cách gieo vần nhịp nhàng. III. Kết bài – Khẳng định lại ý nghĩa của khổ thơ. Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 Tràng Giang Phân tích khổ 1 Tràng giang ngắn gọn Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà “Tràng giang” ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ 1 bài Tràng giang. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Khổ một trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận đã gợi lên bao nỗi niềm của con người trước cảnh sông dài, trời rộng. Trước mắt ta hiện lên hình ảnh dòng trường giang mênh mông. Huy Cận không gọi đó là trường giang mà gọi là tràng giang. Những âm “ang” đi liền với nhau đã biểu hiện, tạo nên cảm nhận về những lớp sóng cùng những gì là mênh mông, bát ngát,trải dòng trường giang ấgợn lên những lớp sóng nối tiếp bất từ láy”điệp điệp, tune tune” cũng góp phần tạo nên cái trạng thái dập dềnh của sóng hoàn cảnh ra đời của tác phẩm,ta biết dòng tràng giang mà Huy Cận nói đến là dòng sông Hồng. Câu thơ” Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” đã thể hiện được nỗi sầu khôn tả của thi sĩ. Đó là nỗi buồn trải dài bất tận như những lớp sóng điệp điệp, nối tiếp; là nỗi buồn chồng chất, tầng tầng, lớp lớp . Ngay câu thơ này, tạo vật và tâm tình đã có sự gắn đó sẽ được thể hiện trong suốt cả tác phẩm. Trên dòng trường giang hiện lên hình ảnh con thuyền xuôi mái khiến ta có bao cảm nhận khác nhau. Đó chính là con thuyền lênh đênh, trôi dạt, con thuyền buông xuôi mái chèo để măc cho dòng nước cuốn trôi. Ta cũng có thể hiểu câu thơ theo nghĩa đó là con thuyền bất lực trước dòng nước, trước sức mạnh của thiên nhiên. Với 2 cách hiểu ấy,ta vẫn có một cảm nhận rất chunghình tượng thơ đã gợi một cảm xúc buồn thương da diết khi ta nghĩ đến những kiếp người trôi nổi, phiêu dạt trong dòng đời. Trong xã hội cũ, thuyền luôn luôn hướng về bến. Nhưng nếu có một bến đợi nào đó thì với con thuyền đo cũng chỉ là một bến bờ cô liêu mà thôi. Thuyền và nước vốn gắn bó, thế mà ở đây”thuyền về nước lại”. Thuyền và nước lại có sự chia li, cách xa. Trong câu thơ trước, tác giả nói đến nỗi buồn điệp điệp,còn ở đây lại là nỗi “sầu trăm ngả”. Như vậy đã có sự tăng tiến trong tâm tư của tác buồn không chỉ còn ở chiều sâu, bề sâu mà đã trải rộng đến trăm ngả. Dòng trường giang, dòng sông Hồng ấy đã trở thành một dòng sầu cuồn cuộn. Lời thơ khiến ta ngỡ như có một dòng sầu thảm trong tâm tư tuôn chảy hòa cùng dòng sông mênh mang. Ta chỉ còn nghe thấy tiếng nước hay là tiếng sầu đang nức nở, triền miên. Tình đã hoaf nhập với cảnh một cách trọn vẹn. Hình ảnh con thuyền xuôi mái bao quanh là những lớp sóng, là nỗi buồn, nỗi sầu trăm ngả khiến ta nhớ đến những câu thơ của Xuân Diệu” Tôi là con nai nhỏ bị chiều giăng lưới Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối” Sự tương đồng của những hình ảnh thơ cho ta một ý niệm khái quát về nỗi niềm của cả một thế hệ trước cách mạng. Đúng như Huy Cận đã khẳng định chungs tôi lúc đó có cả một nỗi buồn thời đại vì bế tắc không tìm ra lối đi nên nó cứ kéo dài triền miên Đến câu thơ” Củi một cành khô lạc mấy dòng ” ta lại có thêm những nỗi niềm. Nếu Three câu thơ đầu có sự đăng đối trong hơi thở cổ điển thì đến câu này ta lại thấy một cành củi khô mà Xuân Diệu Đã từng nhận xét nét hiện thực, thực tế nôm na đến sống sít. Nhưng Huy Cận đã không viết câu thơ này một cách ngẫu nhiên, đã có sự cân nhắc , lựa chọn vô cùng kĩ lưỡng. Sau khi lược bỏ nhiều câu thơ, tác giả đã chọn câu này. Đây đúng là một câu thơ đã gợi ra những cảm nhận phong phú. Từ một cành cây xanh tươi nơ núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô bập bềnh trôi nổi, thân phận cỏ cây đã qua nhiều thương đau. Điều đó khiến ta càng nghĩ đến những thân phận trôi nổi, bị vùi dập, càng thêm cảm thương những kiếp người. Hình ảnh cành củi khô giữa dòng trường giang ấy còn tạo nên sự tương quan đối lập đặc sắc. Đó là sự tương quan giữa cành củi với dòng sông mênh với sự tương phản ấy, ta còn thấy hình tượng thơ gợi một ý niệm về mối quan hệ giữa con người với cả vũ trụ,không gian. Dòng sông càng mênh mông vời vợi, con người càng nhỏ bé đơn côi. Chính điều này đã khiến ta có cảm giác rờn rợn như chính nỗi lòng của tác giả. Nhìn chung nỗi buồn là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc. Phân tích khổ đầu Tràng giang Bài làm mẫu 1 Huy Cận được mọi người biết đến là nhà thơ của phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông hầu như ca ngợi về vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa nỗi sầu của thế gian. Trong tất cả các tác phẩm, Tràng Giang được đánh giá cao về nội dung lẫn nghệ thuật. Bài thơ được ông sáng tác vào năm 1939 khi đứng ở bờ Nam Bến Chèm và ngắm sông Hồng. Có thể nói, chính cảnh vật nơi đây đã khơi gợi nguồn cảm hứng bất tận trong ông. Khổ 1 tuy chỉ có vài câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện rõ được bức tranh sông nước mênh mông cùng với tâm tình của người thi sĩ. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune tune Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ đậm chất cổ thi. Cảnh vật thiên nhiên được khắc họa qua tâm hồn của người thi sĩ trở nên mới lạ và độc đáo hơn. Bức tranh thủy mặc hiện lên vô cùng đẹp với hình ảnh sóng gợn và thuyền xuôi. Con sóng chỉ gợn nhẹ nhưng cứ “điệp điệp” mãi không thôi. Nhờ sóng mà con thuyền cứ mãi xuôi theo dòng nước. Trong 2 câu thơ này, tác giả còn sử dụng từ láy để làm gia tăng nhịp điệu cho lời thơ. Cách dùng từ của nhà thơ khá độc đáo mang đến điểm mới trong văn chương. Bức tranh sông nước hiện lên vô cùng đẹp qua lời thơ của tác giả. Thế nhưng, tâm hồn con người lại ẩn chứa nỗi buồn sâu lắng. Do sự tác động ấy mà khi đọc hai câu thơ đầu, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn man mác được thể hiện qua từ ngữ. Sông nước mênh mông là thế nhưng con người mãi chỉ là sinh vật nhỏ bé chẳng giữa đất trời. Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Hình ảnh thuyền và nước sau khi được tune tune với nhau thì lại bị tách ra. Đây chính là sự xa cách giữa muôn trùng khơi. Hình ảnh ấy đã được nhân hóa khiến để gia tăng cảm xúc. Cụm từ “sầu trăm ngả” đã mang đến cho người đọc cảm giác buồn vô tận. Nỗi buồn ấy dường như đã lan tỏa ra khắp không gian. Đọc câu thơ, chúng ta sẽ hình dung được cảnh con thuyền lênh đênh vô tận giữa dòng nước bao la. Hình ảnh thuyền và sông đối lập nhau đã làm rõ rệt hơn nỗi buồn da diết của người thi sĩ. Chưa dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” điểm xuyết vào khung cảnh sông nước ấy. Chính yếu tố này đã khiến cho sự lẻ loi của con người giữa trời đất rộng lớn. Cành củi còn bị “khô” thể hiện sự thiếu sức sống của con người. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng phép đảo ngữ cho cụm từ “củi một cành khô” cùng với nhịp thơ 1/3/Three để nhấn mạnh thân phận con người bị vùi dập. Đứng trước khung cảnh ấy, người thi sĩ cảm thấy nỗi buồn man mác. Ông buồn cho thân phận của con người, nghĩ về dòng đời lênh đênh, trôi nổi. Kiếp người vốn có nhiều sự thay đổi nhưng chẳng ai biết trước được điều gì. Con người luôn cô độc, lẻ loi và chơi vơi giữa dòng đời mà chẳng biết đi về đâu. Nỗi buồn của thi sĩ khi đứng trước dòng đời bao la Qua khổ thơ 1 bài Tràng Giang, chúng ta đã phần nào thấy rõ được sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhà thơ giữa bút pháp hiện đại và cổ điển. Nhờ đó mà lời thơ gần gũi nhưng vẫn tác động mạnh mẽ vào lòng người đọc. Thêm vào đó là cách đặt nhan đề độc đáo theo kiểu tả cảnh ngụ tình. Thêm vào đó, sự xuất hiện của những từ láy trong khổ 1 còn mang lại nhiều giá trị biểu cảm. Thông qua đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sự heo hút và mênh mông của dòng sông Hồng và sự nhỏ bé của con người trong khung cảnh ấy. Ngoài ra, Huy Cận còn thành công trong việc sử dụng hình ảnh độc đáo. Có thể bạn chẳng thể bắt gặp được hình ảnh “củi một cành khô” trong thơ văn Việt Nam. Chính sự mới mẻ này đã tạo nên điểm nhấn ấn tượng nâng cao giá trị của tác phẩm. Phân tích khổ 1 bài Tràng Giang, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn xuyên suốt cả đoạn. Tất cả các hình ảnh được nhắc đến mặc dù gần gũi nhưng lại hiện lên rất buồn và không có sức sống dưới ngòi bút của Huy cận. Bởi vì, tâm hồn đang ẩn chứa nỗi buồn nên thơ văn và cảnh vật hiện lên trông rất ảm đạm. Bài làm mẫu 2 Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều là một thành quả nghệ thuật chứa đầy tâm huyết của người nghệ sĩ. Bởi đó là nơi để họ gửi gắm những tình cảm sâu lắng nhất, những cảm xúc, khát vọng chân thành nhất, mãnh liệt nhất về con người và cuộc đời. Dưới mỗi con chữ sáng tạo là biết bao xúc động, biết bao tình yêu cũng như nỗi đau đời trong tâm hồn nhạy cảm của người cầm bút. Để rồi những tác phẩm đích thực ra đời từ những cảm xúc, những chân thành và khát khao sáng tạo mãnh liệt của người nghệ sĩ, chứ không phải một sản phẩm nhạt nhẽo, máy móc hay chỉ để thỏa mãn những thứ tầm thường. Nếu thơ không được viết bằng cảm xúc mãnh liệt, bằng tâm hồn nhạy cảm với sự vang vọng của cuộc đời, nó chỉ là những câu từ hoa mỹ nhưng vô hồn được ép khô trên trang giấy. Huy Cận cũng vậy, ông đến với thơ những năm 40 của thế kỷ trước mang trong mình là những cảm xúc về cuộc đời và con người khiến tâm hồn của chàng thi sĩ ấy thấm thía một nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi. Và có lẽ “Tràng giang” chính là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng 8. Cảm hứng về “Tràng giang” được thể hiện trong một không gian rộng lớn và trải dài trên một vùng bến bãi bờ sông. Đây là nguyên nhân khiến cả câu thơ, câu nào cũng dập dềnh sóng nước. Sóng gợn tràng giang, buồn điệp điệp Câu thơ ngắt thành hai vế theo nhịp ngắt 4/Three cổ điển. Vế đầu là hình ảnh tràng giang mênh mang trong sự tương phản với những gợn sóng nhẹ nhàng trải dài tít tắp, những gợn sóng nhẹ mà miên man, vô hồi, vô hạn. Từ “gợn” không chỉ gợi hình mà còn gợi tính – vừa là những gợn sóng nhỏ nhoi vô cùng giữa mênh mông tràng giang, vừa như gợi sự tĩnh lặng êm đềm của dòng sông đang lặng lẽ trôi xuôi. Một chút vắng lặng và hoang sơ đầu tiên đã thấp thoáng hiện trong tứ thơ. Vế sau là một hình ảnh của tâm trạng trong một tương quan so sánh với vế đầu. “Điệp điệp” là lặp đi lặp lại không bao giờ dứt. Có thể hiểu đây là hình ảnh những lớp sóng tràng giang miên man nối tiếp, gợi sự đơn điệu, nhàm chán; và cũng có thể hiểu đây là ẩn dụ cho tâm trạng; nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những gợn sóng trên sông triền miên, vô tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong lòng người, nhẹ nhàng mà mênh mang không dứt. Cách hiểu này cũng có thể gợi nhớ một hình ảnh so sánh trong ca dao “sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu”. Nhưng nếu câu ca dao so sánh nỗi buồn với sóng nước để nhấn mạnh tương quan về số lượng bao nhiêu – bấy nhiêu thì câu thơ của Huy Cận lại chủ yếu nhấn mạnh tương quan về sắc thái “sóng gợn” miên man vô tận cũng như nỗi buồn “điệp điệp” triền miên, da diết khôn nguôi. Con thuyền xuôi mái nước tune tune Câu thơ vẽ ra một vẻ đẹp hài hòa, đăng đối rất quen thuộc với quan niệm thẩm mỹ phương Đông, vẻ đẹp thường đem đến cho con người cảm giác thanh thản và bình ổn. Sự hài hòa, đăng đối không chỉ thể hiện qua những chi tiết tạo hình khi Huy Cận vẽ ra hình ảnh con thuyền trôi xuôi, tune tune với hai bờ “tràng giang” tạo ra một nét hài hòa êm ả với dòng sông mà còn bộc lộ tinh tế qua nghệ thuật đối của các vế cuối hai câu 1 và 2 “buồn điệp điệp/ nước tune tune”. Bức tranh thơ được phác họa qua một vài nét đăng đối cổ điển nhưng không có cái ung dung tự tại của tâm thế cổ điển – hình tượng thơ vẫn tỏa ra cái buồn ảo não của thi nhân lãng mạn. Bức tranh thơ đẹp nhưng thật buồn vì hình ảnh “con thuyền xuôi mái” đem lại cảm giác như con thuyền mặc sức chảy trôi giữa mênh mang vô định, không người chèo lái; còn buồn hơn vì thế tune tune giữa thuyền và nước gợi lên sự xa cách chia lìa vĩnh viễn, không gặp gỡ, không giao cảm. Vậy là dòng sông tuy có thêm hình ảnh con thuyền mà vẫn lạnh lẽo, hoang vắng, thậm chí còn buồn hơn vì con thuyền nhắc tới cảm giác thiếu vắng hình bóng con người. Vậy là câu 2 đã vẽ ra một vẻ đẹp buồn rất đặc trưng cho cảm hứng lãng mạn – cái đẹp hài hòa miên viễn, nỗi buồn ảo não, đơn côi. Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả Hai vế đối xứng “thuyền về/ nước lại” là một hình ảnh thực, diễn tả sự di chuyển ngược chiều giữa thuyền và nước khi thuyền trôi về phía trước, nước rẽ ngược về phía sau. Câu thơ vẽ ra hình ảnh con thuyền như mất hút vào cõi xa xôi giữa mênh mông sóng nước, giữa dòng tràng giang chia đi “trăm ngả”. Cũng như những gợn sóng gợi liên tưởng đến những gợn buồn trong câu một, nghệ thuật ẩn dụ trong câu ba lại đem đến cảm nhận tràng giang mênh mang như nỗi sầu muôn mối ngổn ngang trong lòng nhân vật trữ tình. Sóng nước hiện hữu cho nỗi buồn không dứt còn sông nước “trăm ngả” lại là ẩn dụ cho nỗi sầu vô tận vô cùng. Cùng với thế “tune tune” gợi sự chia lìa vĩnh viễn trong câu hai, sự di chuyển ngược chiều của thuyền và nước trong câu ba càng đem lại cho tràng giang cảm giác hoang vắng, buồn bã, hiu quạnh đến vô cùng. Củi một cành khô lạc mấy dòng Sự đối xứng giữa “mấy dòng” và “trăm ngả” càng làm sông nước thêm bao la rợn ngợp, và do đó càng làm nổi rõ sự tương phản với một cành củi khô đơn lẻ. Cả bốn từ của vế đầu câu thơ “củi một cành khô” đều hướng tới nét nghĩa của sự ít ỏi, nhỏ bé, đơn côi, gầy guộc, đặc biệt khi đặt chữ “củi” lên đầu câu, nghệ thuật đảo ngữ đã tô đậm cảm giác thiếu vắng sự sống giữa một vùng không gian mênh mông, cảm giác ấy càng rõ hơn khi đặt cành củi khô xác trong hệ thống với “con thuyền xuôi mái” vắng bóng con người. Đặt trong trường liên tưởng của nghệ thuật ẩn dụ, cành củi khô gầy guộc, không còn sự sống, trôi nổi lạc loài giữa mênh mông tràng giang gợi bao suy ngẫm chua chát và buồn bã về sự nhỏ bé, vô nghĩa của những kiếp người giữa dòng đời. Có thể nói, hình ảnh “củi một cành khô” đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ – một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Thơ ca tự cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa với vô vàn hình hài, góc cạnh khác nhau. Có nỗi buồn khi “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi thu mênh mông” Bích Khê, có nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” Xuân Diệu, lại có nỗi buồn khi nghe tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Đây cũng chính là sự sáng tạo mới mẻ góp phần tạo nên phong cách, chỗ đứng riêng cho Huy Cận trên thi đàn Thơ Mới. Từ những ẩn dụ tinh tế trong hình ảnh sóng nước, con thuyền và cành củi lạc loài trên tràng giang, từ phép đối trong ngôn từ và nhịp điệu đều toát ra một phong vị cổ kính, trầm mặc. Huy Cận đã không chỉ phác họa bức tranh thiên nhiên mênh mang hoang vắng, thiếu hơi ấm của sự sống con người mà còn bộc lộ sâu sắc nỗi buồn cùng cảm giác đơn độc, vô nghĩa của thân phận con người khi đối diện với dòng đời vô định ngổn ngang. Sắc thái cổ điển lại hàm chứa tâm thế lãng mạn – nét đặc sắc này không chỉ tạo ra vẻ đẹp buồn của cảm hứng lãng mạn vốn rất đậm trong Thơ Mới mà còn làm nên phong cách riêng cho hồn thơ Huy Cận. Bài làm mẫu 3 Huy Cận thuộc thế hệ những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận được nhiều người nhận xét là mang nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã sáng tác bài thơ Tràng Giang để lại một tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Khổ thơ đầu trong bài thơ tả cảnh sông Hồng, qua đó thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên ấy. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Những câu thơ mở đầu đầy cảm xúc thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên rộng lớn. Đọc bài thơ, người đọc sẽ hình dung ra một dòng sông rộng lớn không chỉ dài mà còn sâu. Cụm từ “trang giang” dùng để chỉ một dòng sông dài vô tận. Điệp từ “nhắn nhủ” thể hiện quy luật tự nhiên của sóng sau khi con sóng vỗ vào bờ. Những câu thơ đầu là nỗi buồn, sự u uất, đa cảm của nhà thơ, sóng dường như được nhân hóa thành nỗi buồn của con người, mỗi con sóng vỗ vào bờ là một nỗi buồn, cứ thế tiếp diễn. Giữa dòng sông ấy hiện lên một con thuyền, một sự tương phản thực sự giữa thiên nhiên rộng lớn và con thuyền nhỏ bé. “Con thuyền” là một hình ảnh hiện thực, dưới góc độ nhìn của tác giả con thuyền như một thân phận nhỏ bé, lênh đênh của kiếp người lênh đênh trên sóng gió cuộc đời. Tác giả sử dụng hình ảnh con thuyền điển hình trong thơ kết hợp với từ “tune tune” để ám chỉ nỗi buồn sâu thẳm. Câu thơ thứ ba trong khổ thơ đầu cũng gợi cho người đọc cảm giác chia xa. Thuyền và nước là hai hình ảnh gắn bó mật thiết với nhau nhưng nay lại phải chia xa. Hình ảnh nước trong câu thơ nói đến con người, nước cũng cảm thấy “buồn” và buồn. Điệp ngữ “trăm nỗi sầu” gợi cảm giác buồn man mác lan tỏa khắp không gian trăm phương. Con thuyền cứ trôi, để lại sau lưng một dòng nước sâu lặng im. Câu cuối của khổ thơ đầu mang đến cho người đọc một hình ảnh lạ so với các nhà thơ khác, đó là hình ảnh “củi khô”. Câu thơ cuối có giá trị gợi hình cao, một khúc củi khô bé nhỏ vô hồn đang lênh đênh trên dòng sông cô đơn, lạc lõng. Cụm từ “lạc mấy dòng” hình như có nghĩa là một nhánh củi khô nhỏ chẻ ngang qua mấy dòng sông. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “gỗ và cành khô” mà viết “gỗ trên cành khô” theo thể thơ 1/3/3, khác hẳn ba câu trên như muốn nhấn mạnh hình ảnh của một nhánh cây khô cũng như thân phận nhỏ bé chôn vùi trong dòng sông đời không biết bến bờ. Tràng Giang một bài thơ có phần mở đầu rất buồn, những cảm xúc, những hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn của tác giả đều vô hồn, cũng như tâm trạng buồn của chính thi nhân và tình cảm của mọi người. Phân tích Tràng giang khổ 1 Bài làm mẫu 1 Huy Cận ông thuộc thế hệ của những nhà thơ nổi tiểng trong phong trào thơ Huy Cận được nhiều người nhận xét mang nỗi buồn nhân thế. Huy Cận sáng tác bài thơ Tràng Giang để lại tác phẩm điển hellònh cho hồn thơ Huy Cận. Khổ thơ đầu tiên trong bài thơ miêu tả cảnh sông nước của dòng sông Hồng, qua đó bộc lộ nỗi buồn của người thi sĩ trong khung cảnh thiên nhiên đó. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Những câu thơ mở đầu đầy cảm xúc thể hiện nỗi buồn của thi sĩ trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Đọc câu thơ người đọc sẽ mường tượng ra cảnh con sông rộng lớn không chỉ dài mà còn sâu. Cụm từ “tràng giang” cho thấy được dòng sông dài vô tận. Cụm từ “điệp điệp” thể hiện được quy luật thiên nhiên sóng sau xô sóng trước tràn vào bờ. Những câu thơ đầu tiên là nỗi buồn, đa sầu đa cảm của thi nhân, những con sóng như được nhân hóa lên thành nỗi buồn của con người, mỗi con sóng xô vào bờ là một nỗi buồn, cứ thế liên tiếp nhau mà không có dấu hiệu chấm dứt. Giữa con sông đó xuất hiện con thuyền, hình ảnh thực sự đối lập nhau giữa thiên nhiên bao la và con thuyền lại nhỏ bé. “Con thuyền” chính là hellònh ảnh tả thực, dưới góc độ của tác giả nhìn con thuyền như thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người lênh đênh trên sóng nước cuộc đời. Tác giả sử dụng hellònh ảnh con thuyền cổ điển trong thơ ca kết hợp với điệp từ “tune tune” mang lại nỗi buồn sâu thẳm. Câu thơ thứ Three trong khổ thơ đầu còn mang lại cảm giác chia lìa cho người đọc. Thuyền và nước hai hình ảnh gắn bó khăn khít với nhau nhưng giờ đây phải xa cách. Hellònh ảnh nước trong câu thơ ám chỉ con người, nước cũng cảm xúc biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác nỗi buồn trải dài khắp không gian trăm thuyền cứ mãi lênh đênh để lại dòng nước lặng im thăm thẳm. Câu thơ cuối trong khổ thơ đầu tác giả mang đến cho người đọc hình ảnh lạ, lạ so với các nhà thơ khác đó là hình ảnh “củi khô”. Câu thơ cuối mang giá trị gợi hellònh cao, chiếc củi khô thiếu sức sống và nhỏ bé đang trôi trên sông cô đơn, lạc lõng. Cụm từ “lạc mấy dòng” như muốn nói cành củi khô vốn bé nhỏ lại bị chia rẽ khắp mấy dòng sông. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “ một cành củi khô” mà viết “củi một cành khô” cùng nhịp thơ 1/3/Three khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh hellònh ảnh cành củi khô cũng như thân phận nhỏ nhoi bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời không biết bến bờ. Tràng giang một bài thơ có mở đầu rất buồn, cảm xúc, các hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn tác giả đều không có sức sống, cũng như chính tâm trạng buồn man mác, nỗi sầu kiếp người của chính nhà thơ. Bài làm mẫu 2 Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà con là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là một bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm 19 Đúng như nhà thơ Huy Cận từng nói, bài thơ này được sông Hồng, quãng Chèm Vẽ và những con sông khác gợi tứ. nhưng nó là bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ thơ đầu. Trước hết ta chú ý đầu đề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang”, để ta không lầm với sông Trường Giang Trung Quốc, hay con sông dài nói chung. Trong Tiếng Việt “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận mà trống rỗng khiến người ta chán chường. Mở đầu bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mông bất tận Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune songThuyền về, nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng. Ngay câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ, tuy rất nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thuở. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “tune tune” với nhau chứ không gắn bó với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngã nào? Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào các vật nhỏ sóng, thuyền, củi khô. Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gãy, khô xác của thân cây. Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét nước tune tune, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồm, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn. Bài làm mẫu 3 Nhà thơ huy cận tên thật là Cù Huy Cận. Nhắc đến thơ của ông, người ta có thể nhớ ngay đến chất thơ chất chứa những nỗi sầu nhân thế và lòng ngợi ca cảnh đẹp của thiên nhiên. Trước Cách mạng tháng Tám, tên tuổi của Ông gắn liền với rất nhiều tác phẩm tiêu biểu như “ Lửa thiêng”, “ vũ trụ ca”,… Bài thơ “ tràng giang” trong tập “ lửa thiêng” là một trong những áng thơ tiêu biểu bậc nhất của Huy Cận. Bài thơ mang dòng chảy cảm xúc có chút u buồn mênh mang cho kiếp người bé nhỏ, trôi nổi giữa biết bao ngã rẽ cuộc đời. Đặc biệt đoạn thơ thứ nhất đã cuốn hút ngay người đọc theo tâm hồn thơ của tác giả rất độc đáo. Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của thiên nhiên, kéo theo cả tâm trạng của lòng người. Con sông Hồng dài rộng bát ngát, uốn quanh bao trọn cả non sông Việt nam. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả lại sử dụng “tràng” thay vì từ “ trường”. Âm “ ang” mang mới cho người đọc mường tượng được bề ngoài rộng lớn của con sống kia. Đấy không chỉ là con sông của tạo hóa làm nên, mà tác giả còn muốn nhắc tới dòng sông của đời người, dòng sông chất chứa bao tâm tưởng suy nghĩ. Có biết bao thi sĩ nhà thơ đã mượn thiên nhiên để giải bày lòng mình. Nỗi buồn của con người thì vô vàn biết bao buồn tình yêu, buồn tình bạn, buồn chốn sự nghiệp, còn nỗi buồn của Huy cận cũng như bao người. Buồn vì ta chưa thể tìm ra con đường đi cho cuộc đời, cho kiếp người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm ẩn chứa một tinh thần hiện đại. Ngay từ đầu bài thơ, độc giả đã bắt gặp những con sóng đầy tâm tư “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune tune” Trong thơ Xuân Quỳnh, bà cũng dùng hình ảnh của sóng để diễn tả nỗi buồn của Thuyền và biển. Dường như “ sóng” là gia vị hay chất xúc tác dẫn đến những cung bậc cảm xúc của đời người. Hai từ láy “ điệp điệp”, “ tune tune” ở cuối câu thơ mang hơi hướng cổ kính của Đường thi. Nó khiến cho tâm trạng người đọc cũng trải dài, mênh mang theo dòng chảy của con sông dài vạn dặm ấy. Những con sóng gối đầu lên nhau, loang xa, dập dềnh theo dòng nước. Mặc cho dòng nước chảy về nơi nào, sóng cứ vỗ về mênh mang. Trên dòng sông ấy, độc cô “ con thuyền” xuôi theo dòng nước, tựa như sự buông thả, bất cần chẳng cần quan tâm tới điểm đến. Cái tài viết thơ của Huy Cận thật đáng ngưỡng mộ, bằng từ ngữ thơ ông lại lột tả nên sự chuyển động của “ sóng”, của “ thuyền”, nhưng lại khiến cho người đọc không tránh khỏi có chút cảm giác lặng lẽ, cô độc trước thiên nhiên. Tiếp nối dòng chảy cảm xúc ấy, Huy Cận đã viết “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Mới đây thôi ta còn nhìn thấy thuyền xuôi theo dòng nước. Theo lẽ đời, thuyền và nước nào có thể tách rời, thuyền đi đâu về đâu là nhờ có nước xuôi dòng, vỗ về. Thế mà Huy cận lại cảm nhận được thuyền và nước đang cách xa, không chung đường. Từ “ lại” khiến cho câu thơ nghe có chút tiếc nuối, nhớ mong xót xa. Chính vì lẽ đó là khiến cho lòng người không tránh khỏi cảm giác “ sầu” bi. Nhà thơ sử dụng cả từ chỉ lượng “ trăm” để đong đếm cho nỗi tiếc thương vô hạn ấy. Cho đời biết rằng ta chẳng bao giờ mong cho giờ phút thuyền và nước phải chia lìa. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ, khéo léo nhất qua câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng” Một con thuyền, một cành củi khô đã càng làm nổi bật lên nỗi cô đơn lạc lõng. Tựa như chỉ có mình nhà thơ đang đối diện với vũ trụ thiên nhiên kia. Nhưng cành củi ấy lại khô héo, thiếu sự sống biết nhường nào. Nó chẳng giống như cảnh vật tràn đầy sức sống của “ Một bông hoa tím biếc” của thanh hải trong bài “ Mùa xuân nho nhỏ”-. “ cành khô” ấy mang nỗi sầu vô định của thi nhân, chỉ có thể trôi nổi, bập bềnh theo dòng nước mênh mang mà chẳng có một định hướng. Cành củi ấy trôi đi phương nào, biết trước là bến bờ bão tố hay chốn bình yên cũng chẳng ai có thể rõ. Hình ảnh giản dị mà sao khiến cho lòng người đọc cảm thấy trống rỗng, cô liêu. Tài năng “tả cảnh ngụ tình “của Huy cận thật tài hoa, khéo léo. Chỉ thông qua những hình ảnh giản đơn, “con sóng”, “ chiếc thuyền”, “ cành khô” mà ta dễ dàng bắt gặp trong biết bao bài thơ khác, nhưng trong thơ của Huy cận nó có thể truyền tải mạnh mẽ những cảm xúc rất riêng không thể hòa lẫn vào vào các bài thơ xưa. Vẻ đẹp hiện đại, đơn giản mang nặng những tâm tư tình cảm, chân tình của tác giả sẽ mãi đi sâu vào lòng người. Bài làm mẫu 4 “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắmNỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưaHay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưaCùng đất nước nặng buồn sông núi” Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Đúng như những nhận xét của Xuân Diệu, trước cách mạng thơ Huy Cận thường mang đậm nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã có rất nhiều sáng tác thể hiện nỗi buồn. Tràng Giang là một trong những tác phẩm hay điển hellònh cho hồn thơ Huy Cận một thời. Khổ thơ đầu bài thơ đã miêu tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mang, heo hút của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của người thi sĩ trước không gian vô tận. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền suôi mái nước tune songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Bài thơ Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu, ông đứng ở bến nhìn ra cảnh sông Hồng rộng lớn. Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ đã mang hellònh ảnh sóng nước sông Hồng buồn man mác vào tác phẩm “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” Đọc câu thơ người đọc hellònh dung ra một con sông mênh mang sóng nước. Cụm từ “tràng giang” cho thấy một dòng sông dài vô tận. Nhà thơ không dùng “trường giang” mà dùng từ “tràng giang” khiến cho dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn có chiều sâu. Cụm từ “điệp điệp” cho thấy những đợt sóng cứ dập dồn, liên tiếp xô nhau vào bờ. Qua cái nhìn đa sầu đa cảm của thi nhân, từng đợt sóng được nhân hóa lên như con người, cũng biết “buồn điệp điệp”. Từng đợt sóng gợn trên sông của hellònh ảnh thật ấy cũng như những nỗi buồn đang trải dài vô tận. Từ láy “điệp điệp” càng nhấn mạnh nỗi buồn hết lớp này đến lớp khác, nỗi niềm mang nhiều tâm sự của nhà thơ. Trên con sông dài, không gian rộng lớn ấy, xuất hiện một con thuyền nhỏ bé “Con thuyền xuôi mái nước tune tune” Hellònh ảnh đối lập giữa cái bao la, mênh mông của sông nước với con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng càng gợi lên sự nhỏ bé của con thuyền. “Con thuyền” là hellònh ảnh tả thực nhưng dưới cái nhìn của cái tôi lãng mạn thì con thuyền cũng chỉ những thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người. Hellònh ảnh con thuyền và dòng sông vốn đã xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí kim. Cách sử dụng hellònh ảnh cổ điển trong thơ cùng điệp từ “tune tune” càng gợi lên nỗi buồn xa vắng. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước tune tune” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như những tiếng thở dài não nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ. Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia lìa vô định “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” Thuyền và nước thường đi liền với nhau, nhưng ý thơ ở đây lại mang đến một sự xa cách giữa thuyền và nước. Hellònh ảnh nước trong câu thơ được nhạn hóa như con người, cũng có cảm xúc, cùng biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả. Đọc câu thơ, người đọc hellònh dung được một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa tít, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút. Bên cạnh những hellònh ảnh thân thuộc trong thơ xưa như sóng nước, con sông, con thuyền thì cuối đoạn thơ, nhà thơ lại mang đến một hellònh ảnh và ý thơ độc đáo đặc sắc “Củi một cành khô lạc mấy dòng” “Củi khô” là môt hellònh ảnh hiện đại trong thơ Huy Cận, hiếm khi ta bắt gặp một hellònh ảnh như thế trong thơ ca. Câu thơ giàu giá trị gợi hellònh, mang đến một hellònh ảnh chiếc củi khô nhỏ nhoi đang lạc lõng. Cành củi vốn đã tạo một cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại còn “khô” càng mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống. Cụm từ “lạc mấy dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành củi khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “ một cành củi khô” mà lại viết “củi một cành khô” cùng nhịp thơ 1/3/Three khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh cái hellònh ảnh của củi cũng như thân phận nhỏ nhoi bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định. Xuyên suốt cả đoạn thơ là nỗi buồn sâu thẳm. Tất cả hellònh ảnh thơ “sóng”, “thuyền”, “nước”, “củi” hiện lên trong thơ Huy Cận đều buồn sầu không một sức sống. Bởi chính tâm hồn buồn man mác của nhà thơ đã dàn trải lên cảnh vật nên nhìn đâu cũng là nỗi sầu nhân thế. Như thi nhân xưa có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bằng việc sử dụng những hellònh ảnh thơ chuẩn mĩ trong thơ xưa cùng hellònh ảnh thơ hiên đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hellònh ảnh… Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn man mác trên sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, vô định của kiếp người. Đoạn thơ nói riêng cùng bài thơ nói chung là những vần thơ tiêu biểu cho hồn thơ sầu nhân thế của Huy Cận một thời. Bài làm mẫu 5 Huy Cận là cây bút tiêu biểu trong phong trào thơ Mới. Đến với thơ Huy Cận, người đọc sẽ dễ dàng rung động bởi nỗi buồn man mác quẩn quanh. Tràng Giang là một tác phẩm như thế. Bài thơ sẽ gợi lên cho chúng ta nỗi buồn nhân thế nặng sâu trong lòng tác giả. Nỗi buồn ấy đặc biệt mênh mang, heo hút giữa không gian thiên nhiên vô tận được khắc họa ở đoạn mở đầu bài thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ mở ra trước mắt ta một không gian tràn đầy sóng nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” Chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng bao quát được cả khung cảnh rộng lớn đồng thời gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Hình ảnh dòng sông lững lờ trôi với những làn sóng gợn mênh mang hiện lên vô cùng chân thực và giàu sức gợi. “Tràng giang” với âm “ang” nối liền tạo nên tiếng vọng trong câu thơ, vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh dòng sông dài rộng, mênh mông sóng nước. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng từ láy “điệp điệp” gợi sự liên tiếp, nối liền nhau dường như không dứt. Những con sóng gợn trên mặt sông rộng lớn, nối đầu lên nhau, lớp này tiếp lớp kia, lăn tăn không dứt. Không gian rộng lớn, mênh mông dường như càng làm nổi bật nỗi buồn miên man đang rợn ngợp trong lòng tác giả. Giữa dòng chảy bao la ấy, chiếc thuyền nhỏ đột nhiên xuất hiện, lênh đênh lạc lõng “Con thuyền xuôi mái nước tune tune” Hình ảnh chiếc thuyền bé nhỏ, lững thững trôi đối lập hoàn toàn với dòng sông mênh mang, vô tận. Không giống như con thuyền trên sông Đà của Nguyễn Tuân, mạnh mẽ vượt qua thác ghềnh, con thuyền trôi trên dòng sông trong thơ Huy Cận “xuôi mái” để dòng nước đẩy trôi đầy hững hờ. Thế nhưng, dưới cái nhìn của cái tôi Huy Cận, con thuyền ấy không phải là con thuyền bình thường. Nó phải chăng chính là biểu tượng cho những thân phận nhỏ bé, cho những kiếp người đang lạc lõng lênh đênh giữa dòng chảy cuộc đời rộng lớn. Từ láy “tune tune” được sử dụng trong câu thơ càng nhấn mạnh sự bất lực của con thuyền. Nó dường như chẳng biết mình sẽ trôi về đâu, buông xuôi mái chèo, bỏ mặc tất cả. Nghệ thuật tiểu đối “buồn điệp điệp” – “nước tune tune” liên kết hai câu thơ tạo sự nhịp nhàng, chầm chậm đồng thời cũng như lặng lẽ trút ra tiếng thở dài đầy não nề của Huy Cận trước cuộc đời thực tại. Nỗi buồn của lòng người như thấm đượm vào cành vật. Trong cái nhìn sầu đau của thi sĩ, sự chia ly chậm rãi hiện diện “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” Thuyền và nước những tưởng là hai hình ảnh tune tune đồng hành với nhau, đến đây lại cách xa đầy buồn tủi. Hình ảnh đối ngẫu “thuyền về nước lại” gợi sự chia lìa xót xa, thuyền một hướng, nước một hướng, sầu thương vô cùng. Thuyền lênh đênh trôi mãi đi xa chỉ còn dòng nước lặng lẽ ở lại, heo hắt, cô quạnh. Thuyền và nước ở đây không còn là sự vật vô tri vô giác của thiên nhiên mà đã được nhân hóa lên như một con người. Trước chia ly, chúng cũng có cảm xúc như con người “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu không ngả một bên mà ngả trăm đường, lan tỏa, tràn lan như nuốt chửng cả không gian. Câu thơ vang lên mà lòng người không khỏi trùng xuống. Nỗi buồn vẫn man mác bao trùm, khổ thơ khéo lại bằng hình ảnh vô cùng độc đáo “Củi một cành khô lạc mấy dòng” “Củi” là thứ đơn sơ, mộc mạc, chưa từng xuất hiện trong thơ ca mang ý nghĩa biểu tượng. Thế nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận, nó lại gợi lên bao cảm xúc khác lạ, mới mẻ trong lòng người đọc. “Cành củi” vốn đã mang cảm giác thật nhỏ bé, một cành củi “khô” ở đây càng gợi lên sự hoang tàn, héo úa. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang của dòng sông, bơ vơ, vô định. Nó thậm chí không thể xuôi dòng tune tune như con thuyền, bị quăng quật theo dòng nước, lạc đến mấy dòng. Lối viết đảo ngữ “củi một cành khô” được sử dụng càng nhấn mạnh nỗi cô đơn, lẻ loi, héo tàn. Câu thơ như muốn gợi lên hình ảnh của thân phận nhỏ bé, bơ vơ lênh đênh giữa cuộc đời. Cành củi khô lạc giữa dòng nước dường như chính là hình ảnh biểu tượng cho con người mang trong mình nỗi sầu lo, lạc lõng vô định giữa dòng đời xô đẩy, không biết đi đâu về đâu. “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nướcChọn một dòng hay để nước cuốn trôi” Có thể nói, với Four câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã sử dụng hiệu quả những biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Những hình ảnh thơ gợi cảm cùng phép đối và các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, các từ láy đã giúp người đọc cảm nhận được cái tôi nhỏ bé, suy tư giữa cuộc đời. Nỗi buồn của nhà thơ trước không gian mênh mang, rộng lớn cũng chính là nỗi lòng của thế hệ thanh niên trí thức trước tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Với những giá trị trên, khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của Tràng Giang. Đồng thời thể hiện được phong cách nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Để rồi năm tháng lặng lẽ chảy trôi, tiếng thơ Huy Cận vẫn còn âm vang mãi trong lòng độc giả. Bài làm mẫu 6 Huy Cận là một trong những nhà thơ thành công nhất phong trào thơ Mới. Người ta nhận xét thơ của Huy Cận thường buồn, một nỗi buồn sâu thăm thẳm, da diết, nỗi buồn của nhân thế, cuộc đời. Các tác phẩm thơ của ông thường nghiêng về nỗi buồn và một trong số đó là Tràng Giang. Bài thơ là điển hình cho nỗi buồn nhân thế mà Huy Cận luôn mang nặng trong lòng. Và ở khổ đầu tiên trong bài thơ, Huy Cận đã miêu tả một cách thật chân thực cái nỗi buồn heo hút, mênh mang trong lòng mình, nỗi buồn trước một không gian thiên nhiên vô cùng vô tận. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước tune songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi một mình ông đứng trước dòng sông Hồng hùng vĩ, lúc đó, ông hai mươi tuổi ở bờ Nam, bến Chèm, cùng nỗi buồn vô tận trong tâm hồn. Bài thơ là hình ảnh của thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ, hùng vĩ của quê hương, ẩn sau bức tranh đó là một nỗi buồn sâu thăm thẳm của Huy Cận và một tấm lòng nặng tình với quê hương. Hiện lên giữa không gian mênh mông của thiên nhiên là một cái tôi nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn giữa cuộc đời cùng nỗi cô đơn, sầu muộn vô cùng. Huy Cận, qua bài thơ, muốn thể hiện niềm khao khát được hòa nhập với con người, với thiên nhiên, và kín đáo đặt trong đó là nỗi niềm của một thanh niên yêu nước yêu quê hương vô cùng. Con người ở thế giới của ông, sống giữa quê hương của mình nhưng lại thấy bơ vơ, lạc lõng trên chính quê hương ấy, đây phải chăng là một nỗi niềm, xúc cảm của một người dân mất nước, bơ vơ giữa cuộc đời với tình yêu quê hương tha thiết của mình? Bài thơ được Huy Cận kết hợp giữa yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, ông đem tinh thần, cái tôi của thơ Mới vào trong một bài thơ thể thất ngôn với chất thơ Đường. Những hình ảnh với thi tứ cổ đầy gợi tả và sinh động. Chất thơ Đường cũng thật đậm đặc, thấm đẫm từ nhan đề thơ, đến thể thơ rồi thi tự, các bút pháp nghệ thuật đối ngẫu, tune đối. Huy Cận đã sáng tác bài thơ khi đứng trên bến Chèm nhìn xuống dòng sông Hồng đang chầm chậm chảy, vậy nên mở đầu bài thơ, người ta mới thấy mở ra một không gian tràn đầy sóng nước cùng nỗi buồn miên man “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” Một hình ảnh vô cùng chân thực và giàu sức gợi tả. Một dòng sông lững lờ trôi với những con sóng gợn lên mênh mang. Cụm từ “tràng giang” được nhà thơ đặt ngay đầu của câu thơ đầu tiên, với hai âm “ang” tạo nên tiếng vọng cho câu thơ, cũng gợi lên cho người độc chúng ta hình ảnh về một dòng sông dài, rộng, mênh mông sóng nước, lại cổ kính, xa xưa. Huy Cận đã tinh tế vô cùng khi không đặt ở đây hai từ “trường giang” mà lại là “tràng giang” khiến cho người ta thấy rằng dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn có một chiều sâu thật bí ẩn nữa. Hai từ “tràng giang” dường như cũng gợi lên phảng phất một chút gì đó trầm buồn đang rợn ngợp trong tâm hồn nhà thơ. Từng con sóng nối nhau liên tiếp, dồn dập “điệp điệp” tràn lên nhau, xô nhau đẩy vào bờ. “Điệp điệp”, từ láy mà Huy Cận dùng ở đây để gợi lên sự liên tiếp, tiếp nối nhau không rời, không dứt. Những con sóng “gợn” lên trên mặt nước sông cứ “điệp điệp” nối nhau, vỗ lăn tăn trên mặt sông, trùng trùng như nỗi buồn trong lòng tác giả, miên man, chồng chất, trải dài vô tận, một nỗi buồn thật cụ thế. Từ láy “điệp điệp” càng nhấn mạnh cái nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Dòng sông dài rộng là thế, bao la là thế, đột ngột xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh mà lạc lõng vô cùng “Con thuyền xuôi mái nước tune tune” Một chiếc thuyền nhỏ bé, lững thững chảy trôi theo dòng nước đối lập với cái bao la, mênh mang của dòng sông. Điều ấy lại càng gợi lên sự nhỏ bé, cô liêu đến vô cùng của con thuyền kia. Con thuyền ấy không như con đò trên dòng sông Đà cuồn cuộn chảy của Nguyễn Tuân cố sức vượt thác ghềnh, con thuyền của Huy Cận lại buông thõng mái chèo “xuôi mái”, để dòng nước đẩy trôi một cách thụ động. Dưới con mắt nhìn của cái tôi lãng mạn, con thuyền kia phải chăng chính là những số phận nhỏ bé, những kiếp người lênh đênh giữa cuộc đời. Và dòng sông chính là dòng chảy của cuộc sống mà con thuyền chỉ là một vật thể quá đỗi nhỏ bé giữa dòng sông ấy? Từ xưa tới nay, con thuyền, dòng sông luôn là những hình ảnh gợi lên những điều xa xôi, những nỗi buồn xa vắng. Ở đây, Huy Cận cũng sử dụng cái hình ảnh cổ điển ấy để gợi lên tâm trạng, nỗi lòng của mình. Cùng với từ láy “tune tune”, người ta lại cảng cảm nhận được sự bất lực của con thuyền kia, nó chẳng hề biết mình sẽ theo dòng chảy trôi về đâu, nó chỉ biết xuôi mái chèo “tune tune” cùng dòng nước, bỏ mặc tất cả. Nghệ thuật tiểu đối được nhà thơ sử dụng trong hai câu thơ đầu tiên “buồn điệp điệp” – “nước tune tune”, tạo nên sự nhịp nhàng, chậm rãi cho hai câu thơ nhưng làm người ta cảm thấy đó như tiếng thở dài đầy não nề của Huy Cận khi đứng nhìn dòng sông chảy. Nỗi buồn của Huy Cận dường như thấm vào trong cảnh vật, mỗi hình ảnh ông nhìn đều là nỗi buồn, đều là những cảnh sầu muộn, không hề có chút vui tươi. Hình ảnh con thuyền giữa dòng sông cũng mang lại cho người ta một sự buồn bã, gợi lên cảnh lênh đênh. Và con thuyền ấy còn khiến người ta nghĩ về sự chia ly khi mà ông viết “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” Thuyền với nước luôn là hai hình ảnh tune hành với nhau, thế mà ở đây, lại mang đến một sự xa cách đầy buồn tủi. Nghệ thuật đối ngẫu “thuyền về nước lại” khiến người ta thấy được sự chia lìa, thuyền một hướng, nước lại một hướng, thật buồn bã biết bao. Thuyền và nước ở đây được nhân hóa như một con người, chúng cũng có cảm xúc “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu ấy dường như lan tỏa ra, tràn ra vô tận, khắp mọi không gian. Đọc câu thơ lên mà người ta như thấy con thuyền cứ lênh đênh, cứ đi xa mãi, còn dòng nước cứ lặng lẽ ở lại, heo hút, mù mịt. Đọc câu thơ mà người đọc như cảm nhận được nỗi buồn ngấm vào trong gan ruột, ngấm vào từng câu chữ, buồn đến vô cùng vô tận. Thế nhưng, đặc sắc nhất trong thơ Huy Cận, trong tác phẩm Tràng Giang phải kể tới hình ảnh thơ độc đáo “Củi một cành khô lạc mấy dòng” Các nhà thơ thường sử dụng những hình ảnh mang biểu tượng với ý nghĩa đẹp đẽ như vầng trăng, con thuyền, dòng sông, mặt nước, … thế nhưng ở đây, Huy Cận lại tận dụng một hình ảnh thơ có lẽ là độc nhất vô nhị trong thi ca Việt – cành củi khô. Hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước vừa giản dị, vừa gợi lên bao cảm xúc khác lạ, mới mẻ trong lòng người đọc. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang của dòng sông, nó bơ vơ, không biết hướng về đây. “Cành củi” vốn đã tạo nên một cảm giác thật nhỏ bé, thật tầm thường, vậy mà ở đây lại chỉ là một cành củi “khô”, càng gợi lên sự hoang tàn, héo úa, thiếu sức sống. Cành củi ấy không như con thuyền, nó nhỏ bé hơn, bị quăng quật trong dòng nước bao la đến nỗi “lạc mấy dòng”. Nghệ thuật đảo ngữ được Huy Cận tận dụng triệt để ở đây, ông nhấn mạnh từ “củi” để gợi lên sự héo úa, thiếu sức sống đồng thời cũng để nhấn mạnh sự lẻ loi của cành củi giữa dòng sông rộng lớn. Một vật thể nhỏ bé, lại chỉ có một “củi một cành khô”, ít ỏi quá đỗi giữa cái mênh mông của sông nước này. Nhịp thơ 1/3/3, chậm rãi như gợi lên cái bé nhỏ quá đỗi của cành củi kia. Cả câu thơ như muốn gợi lên hình ảnh của một thân phận bé nhỏ, bơ vơ giữa dòng đời. Cành củi lạc giữa dòng nước chảy trôi cũng như con người mang trong mình nỗi sầu vô hạn, bơ vơ giữa dòng đời đang xô tới. “Mấy dòng” nước, mấy dòng đời, vậy mà chẳng thể chọn lấy một con đường đi, con người ấy thật lạc lõng, thật lênh đênh quá. Như Tố Hữu cũng đã từng nói về sự bơ vơ, vô định, không biết hướng đi cuộc đời mình trong bài “Dậy lên thanh niên” “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nướcChọn một dòng hay để nước cuốn trôi” Huy Cận cũng đang trong tình thế ấy, và Huy Cận còn có một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng hơn cả Tố Hữu nữa. Khổ thơ đầu bài thơ Tràng Giang đã cho chúng ta thấy được một nỗi buồn xuyên suốt trong từng câu chữ. Tất cả những hình ảnh thơ đều sầu muộn, không có lấy một chút sức sống, chúng đều lênh đênh, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng nước trôi. Có lẽ bởi chính tâm hồn của Huy cận cũng đang trong một nỗi buồn nhân thế, chính vì vậy, nỗi buồn ấy đã ngấm sang từng cảnh vật quanh ông. Như Nguyễn Du đã từng khẳng định rằng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bằng việc sử dụng cực kì hiệu quả những phép đối, những hình ảnh thơ, những biện pháp tu từ, ẩn dụ, nhân hóa, đã khiến cho chúng ta cảm nhận được một cái tôi thật nhỏ bé giữa cuộc đời, đặc biệt khi nó đứng trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, giữa vũ trụ bao la. Khổ thơ nói riêng cũng như bài thơ Tràng Giang nói chung đều tiêu biểu cho hồn thơ mang nỗi sầu nhân thế của Huy Cận – một nhà thơ thuộc phong trào thơ Mới vô cùng tài năng. ………….. Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích khổ 1 Tràng giang Mở Bài Tràng Giang Hay ❤️️ 20 Đoạn Văn Mẫu Phân Tích ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Mẫu Mở Bài Trực Tiếp Và Gián Tiếp Hay Nhất Được Chọn Lọc Tại Mở Bài Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2Mở Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3Mở Bài Phân Tích Tràng Giang – Mẫu 4Mở Bài Trực Tiếp Tràng Giang – Mẫu 5Mở Bài Gián Tiếp Tràng Giang – Mẫu 6Mở Bài Tràng Giang Gián Tiếp Sinh Động – Mẫu 7Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất Học Sinh Giỏi – Mẫu 8Mở Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi Chọn Lọc – Mẫu 9Mở Bài Tràng Giang Nâng Cao – Mẫu 10Mở Bài Bài Thơ Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 11Mở Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 12Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 – Mẫu 13Mở Bài Tràng Giang Khổ 2 – Mẫu 14Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 2 – Mẫu 15Mở Bài Tràng Giang 2 Khổ Đầu – Mẫu 16Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 – Mẫu 17Mở Bài Tràng Giang Khổ 4 – Mẫu 18Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 4 – Mẫu 19Mở Bài Tràng Giang Khổ Cuối – Mẫu 20 Viết mở bài Tràng giang Huy Cận với lời dẫn dắt hay và sinh động sẽ giúp bài viết của bạn trở nên ấn tượng hơn. Tham khảo gợi ý dưới đây Thời đại Thơ mới của Việt Nam ghi dấu sự thành danh của nhiều bậc thi nhân đại tài. Đó là một Xuân Diệu khao khát tình đến cháy bỏng, mãnh liệt. Một Chế Lan Viên trăn trở đi tìm cái tôi cá nhân. Một Hàn Mặc Tử chìm trong thực và mộng. Và có cả một nhà thơ – một con người mang tâm hồn của một kẻ ảo não, chênh vênh giữa cõi đời rộng lớn. Thơ ông hàm súc nhưng lại ẩn chứa biết bao triết lý cùng những dòng suy tưởng miên man. Không ai khác ngoài Huy Cận – chàng thi sĩ đã để lại cho đời biết bao tác phẩm xuất sắc tuyệt thế mà đặc sắc nhất phải kể đến thi phẩm “Tràng giang”. Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Tràng Giang ☔ 12 Mẫu Tóm Tắt Hay Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2 Chia sẻ mẫu mở bài Tràng giang hay nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết của mình. Huy Cận – một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải, nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945, khi cái tôi của mỗi cá thể được coi là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong “Tràng giang”, từng câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở. Cái nỗi buồn khó nắm bắt, khó định hình của một tâm hồn dễ rung động trước cảnh vật, của trái tim khao khát được yêu thương, được hòa quyện. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới được coi như “tập sách gối đầu giường” của các nam thanh nữ tú đương thời, viết về tình yêu, về nỗi băn khoăn, trắc trở trong tình cảm đôi lứa. Chính vì thế, tinh thần chủ đạo trong những bài thơ của thời kì này là nỗi buồn, sự cô tịch, quạnh hiu. Nhóm bút “Tự lực văn đoàn” bao gồm những cây bút lão luyện như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đã tạo nên một thời kì thơ ca lãng mạn, tình tự. “Tràng giang” là một lời tự thuật về cái khắc khoải, buồn đau của một cái tôi nhỏ nhoi giữa mênh mông trời đất. Con người cảm thấy nhỏ bé, cô độc giữa không gian vô tận. Ra đời năm 1940 trong tập “Lửa thiêng”, tác phẩm được coi là tác phẩm đưa Huy Cận lên bậc lão làng trong phong trào Thơ mới. Lấy điểm nhìn từ bờ Nam bến sông Hồng, giữa sông nước bất tận, lòng người gợi lên một nỗi u hoài cho thân phận nhỏ bé, vô định giữa đất trời khắp cùng. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Kết Bài Tràng Giang 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3 Tham khảo mẫu viết mở bài Tràng giang ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh chuẩn bị tốt cho bài viết trên lớp. Huy Cận 1919 – 2005, quê ở Hương Sơn – Hà Tĩnh. Là một trong những thi sĩ có công đưa phong trào này lên tới đỉnh cao. Ở độ chín nhất, phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển nhất là cổ điển Đường thi với yếu tố thơ Mới, cụ thể hơn là sự hòa hợp giữa nỗi sầu vũ trụ và thế nhân từng chan chứa trong thơ Đường với nỗi cô đơn của cái “tôi” cá nhân, cá thể trong thơ Mới tạo nên nỗi sầu vạn kỉ. Bài thơ Tràng giang sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng là bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám được xếp vào hàng kiệt tác. Mở Bài Phân Tích Tràng Giang – Mẫu 4 Gợi ý cách viết mở bài phân tích Tràng giang dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi những ý văn hay. Hoài Thanh đã có một nhận định về các nhà thơ mới năm 1930 “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét độc đáo riêng của mình. Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ đặc sắc và thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Mở Bài Trực Tiếp Tràng Giang – Mẫu 5 Tham khảo và vận dụng mẫu mở bài trực tiếp Tràng giang dưới đây giúp các em học sinh luyện tập cách dẫn dắt vấn đề trực tiếp. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà con là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là một bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Gửi tặng bạn 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Mở Bài Gián Tiếp Tràng Giang – Mẫu 6 Dưới đây là mẫu mở bài gián tiếp Tràng giang để các em học sinh cùng tham khảo và có cách bắt đầu bài viết thật ấn tượng. Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ…. Và chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả. Mở Bài Tràng Giang Gián Tiếp Sinh Động – Mẫu 7 Chia sẻ dưới đây mẫu mở bài Tràng giang gián tiếp sinh động với phương pháp dẫn dắt vấn đề linh hoạt và giàu hình ảnh. Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận. Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Tràng Giang Huy Cận 🌟 Những Bài Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất Học Sinh Giỏi – Mẫu 8 Đón đọc mẫu viết mở bài Tràng giang hay nhất học sinh giỏi dưới đây giúp các em học sinh nâng cao kỹ năng diễn đạt. Trong phong trào thơ mới và trong cả nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu và Huy Cận đều là hai nhà thơ lớn, những tên tuổi hàng đầu có những đóng góp to lớn cho nền văn học của nước nhà. Hai nhà thơ này lại chính là những người bạn thân thiết, đến độ tri âm, tri kỷ thế nhưng mỗi một nhà thơ lại có riêng cho mình một nỗi ám ảnh, một niềm suy tư riêng về cuộc đời. Nếu như Xuân Diệu suốt một đời thơ cứ mang một nỗi ám ảnh thời gian, thiết tha với một lòng nồng nàn yêu thương cuộc sống đầy rạo rực, cháy bỏng. Thì Huy Cận trong những năm trước cách mạng lại thường mang một nỗi ám ảnh không gian, với tâm hồn đa sầu, đa cảm, thơ của ông luôn chất chứa những nỗi buồn thế sự, mênh mang của một cái tôi trữ tình bơ vơ, lạc lõng trước thời cuộc rối ren. Và cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian ấy hiện lên thật rõ ràng trong bài thơ Tràng giang, bài thơ đã đưa tên tuổi của Huy Cận vụt sáng thành một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1941. Huy Cận 1919-2005, tên khai sinh là Cù Huy Cận, ông vừa là một chính khách có nhiều năm hoạt động trong bộ máy nhà nước đồng thời cũng là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng thơ của ông đẹp nhưng thường mang những nỗi buồn da diết vô định của một cái tôi trữ tình đầy sầu não trước trời đất bao la, đó là những buồn thương cho kiếp người, cho cuộc đời, buồn thương cho hoạt cảnh đất nước đầy rối ren, phức tạp, là sự bất lực của người thi sĩ. Sau cách mạng thơ của ông như được thay một tinh thần mới, vui tươi lạc quan, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, và vẫn là những vẻ đẹp của thiên nhiên bao la rộng lớn được ông chú ý ca ngợi nhiều hơn cả. Một số tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận phải kể đến như tập Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng. Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng, lấy cảm hứng cảnh mênh mông sóng nước của sông Hồng kết hợp với cái tôi trữ tình đầy sầu thương, đa cảm, chất thơ vừa cổ điển của thơ Đường lại xen lẫn hiện đại của văn học Pháp, đã đánh dấu phong cách của nhà thơ trước một rừng các nhà thơ mới cùng thời. Đồng thời thể hiện được những nỗi lòng thầm kín của mình về cuộc đời, về kiếp người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời như dòng nước mênh mang, qua đó thể hiện tấm lòng yêu quê hương đất nước âm thầm, sâu sắc. Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi Chọn Lọc – Mẫu 9 Với mẫu mở bài Tràng giang học sinh giỏi chọn lọc dưới đây, các em học sinh sẽ có thêm cho mình gợi ý hay khi làm bài. Thiên nhiên đẹp tươi hùng vĩ luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn và kéo theo đó là vô vàn cảm xúc. Đứng trước cái bao la hùng vĩ của trời đất khiến con người đôi khi thấy mình nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn. Và rồi cứ thế bao nhiêu cảm xúc trong lòng bỗng trào dâng, đó là nỗi nhớ quê, là những tâm sự chưa bao giờ kể. Thật vậy, đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao quá ngắn ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang” của Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ ngữ trong bài phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả trên hành trình đi tìm “Thơ mới”. Khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 1 Tràng Giang 💕 Những Bài Phân Tích Hay Mở Bài Tràng Giang Nâng Cao – Mẫu 10 Tham khảo cách mở bài Tràng giang nâng cao dưới đây với những thông tin hữu ích dành cho các em học sinh. Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà “Tràng giang” ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ. Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo “Ngày nay” sau đó in trong tập “Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “Thơ mới” thời kì đầu. Mở Bài Bài Thơ Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 11 Mẫu gợi ý viết mở bài bài thơ Tràng giang đặc sắc dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. Khi nhận định về phong trào thơ mới, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có những lời bình rất hay và thú vị “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Có thể thấy dường như tất cả những nỗi buồn của thơ mới đều tập trung ở Huy Cận, một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất điều đó chính là Tràng giang, một bài thơ hiện lên với phong cảnh thiên nhiên trữ tình cũng nhuốm đầy nỗi buồn mênh mang, vô định của nhà thơ. Huy Cận 1919-2005, tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp, thơ của ông hàm súc giàu tính suy tưởng và triết lý. Các tập thơ tiêu biểu cảu ông bao gồm Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng. Tràng giang là bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng, tập thơ đầu tay của Huy Cận, đây là một bài thơ hay và tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới, đánh dấu phong cách thơ của Huy Cận trong rất nhiều nhà thơ mới cùng thời. Tràng giang được khơi nguồn cảm hứng từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, lời thơ và hình ảnh thơ thấm đẫm màu sắc cổ điển, bài thơ khắc họa phong cảnh thiên nhiên trong không gian buồn vắng mênh mông. Thông qua đó, nhà thơ đã bộc lộ tình đời tình người và lòng yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng, nửa thầm kín. Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌼 Văn Mẫu Tuyển Chọn Mở Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 12 Chia sẻ dưới đây mẫu mở bài Tràng giang Facebook hay và sinh động giúp các em học sinh hoàn thiện bài viết của bản thân. Trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, nền Văn học Việt Nam mang âm hưởng chủ đạo về cái tôi trữ tình, về nỗi buồn vô định. Thơ ca xoay quanh con người, đặt cá nhân là cá thể cao nhất, đáng quý nhất. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của thời kì Thơ mới bấy giờ là “Tràng Giang” của Huy Cận – một tay bút cứng cựa của nhóm bút “Tự lực văn đoàn”. Vẻ đẹp thiên nhiên là nguồn cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, qua đó, tác giả thể hiện nỗi lòng buồn thương vời vợi, xót xa cho một lớp người nhỏ bé, vô định. Nỗi u sầu tạo nên linh hồn của tác phẩm đã mang đến vẻ đẹp vừa cổ điển lại vừa hiện đại, vừa mới lạ, khác biệt nhưng lại gần gũi, thân thương đến không ngờ. Hoạt động chủ yếu vào thời kì 30 – 45, thơ Huy Cận là tiếng thơ sầu thảm của một kẻ say tình, vô phương hướng, một thi sĩ tài hoa nhưng chưa tìm ra được lối đi đúng đắn cho bản thân. Sau Cách mạng, thơ ông mang tư tưởng lạc quan, yêu đời, được định hướng bởi công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước với những bài ca lao động, chiến đấu. “Tràng Giang” được sáng tác trước Cách mạng, nằm trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay của tác giả. Lấy bối cảnh từ tầm nhìn của nhân vật trữ tình vào một buổi chiều tàn bên bãi Chèm bờ sông Hồng, tác phẩm là sự giao thoa những vẻ đẹp mang tính thời đại, vừa có âm hưởng cổ điển từ những điển cố, điển tích xưa cũ của thơ nôm, thơ đường, nỗi buồn gợi lên từ cảnh vật quen thuộc, nhưng qua ngòi bút và cá tính thơ của tác giả, những chất liệu quen thuộc ấy trở nên khác biệt, độc đáo và hiện đại hơn. Có thể bạn sẽ thích 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌹 Văn Mẫu Hay Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 – Mẫu 13 Trước khi thực hiện bài viết hoàn chỉnh, các em học sinh sẽ cấn có một mở bài Tràng giang khổ 1 hay và ấn tượng. Tham khảo gợi ý dưới đây “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắmNỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưaHay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưaCùng đất nước nặng buồn sông núi” Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Đúng như những nhận xét của Xuân Diệu, trước cách mạng thơ Huy Cận thường mang đậm nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã có rất nhiều sáng tác thể hiện nỗi buồn. Tràng Giang là một trong những tác phẩm hay điển hình cho hồn thơ Huy Cận một thời. Khổ thơ đầu bài thơ đã miêu tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mang, heo hút của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của người thi sĩ trước không gian vô tận. Mở Bài Tràng Giang Khổ 2 – Mẫu 14 Luyện tập viết mở bài Tràng giang khổ 2 sẽ giúp các em học sinh có thêm những ý tưởng hay để bắt đầu và đạt kết quả cao cho bài viết của mình. Không tha thiết, nồng nàn như Xuân Diệu, cũng chẳng điên cuồng lãng mạn như Hàn Mặc Tử, thơ của Huy Cận là một nỗi buồn mênh manh vô tận, buồn từ tâm hồn đến cảnh vật. Đọc thơ ông, ta thấy pha tạp chút hiện đại của văn học Pháp, nhưng nhiều nhất vẫn là nét cổ điển đậm đà của thơ Đường, thế nên ta thường thấy trong thơ ông có nỗi buồn rất lạ, rất vô định. Nhưng suy cho cùng, nỗi buồn thơ ông cũng chỉ xuất phát từ nỗi buồn thế sự, nỗi hoài niệm những điều xưa cũ, những phong cảnh huy hoàng nay đã hết, chỉ còn lại một cuộc đời rối ren. Một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất của Huy Cận phải nhắc đến Tràng giang. Chàng thi sĩ mới 21 tuổi đời, đứng ở nam bến Chèm sông Hồng mà suy tư về cuộc đời mình, cuộc đời người, rồi trước cái không gian rộng lớn, trời rộng – sông dài đã tức cảnh sinh tình đem đến một thi phẩm tuyệt vời, khiến độc giả phải đắm chìm vào trong cả nỗi buồn của chàng thi sĩ. Chỉ lấy nội dung khổ thơ thứ 2 của Tràng giang cũng đủ để ta chiêm nghiệm về nỗi sầu nhân thế ấy. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang 💧 ay Nhất Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 2 – Mẫu 15 Tham khảo mẫu viết mở bài Tràng giang khổ 1 2 dưới đây với những ý văn dẫn dắt sinh động giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài kiểm tra viết. “Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”. Với Huy Cận ông tìm về nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở đó là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng của ông được khơi nguồn từ đó và đọng lại ở “Tràng Giang”. Nhắc đến nhà thơ Huy Cận là nhắc đến một hồn thơ cổ điển với nỗi buồn mênh mang, sâu lắng. Bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ viết về cảnh sông nước nhưng sau bức tranh thiên nhiên rộng lớn, u tịch ấy là một tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của người thi sĩ. Đặc biệt, trong hai khổ thơ đầu tiên, Huy Cận không chỉ mở ra khung cảnh sông nước buồn vắng mà còn hé mở bức tranh tâm trạng thầm kín của bản thân. Mở Bài Tràng Giang 2 Khổ Đầu – Mẫu 16 Dưới đây là gợi ý viết mở bài Tràng giang 2 khổ đầu để các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng vào bài viết sắp tới. Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới 1930-1945 với những tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Đặc biệt hai khổ thơ đầu tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Bài Tràng Giang Chuẩn Nhất 🍀 Mẫu Nghị Luận Hay Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 – Mẫu 17 Chia sẻ dưới đây gợi ý viết mở bài Tràng giang khổ 3 sẽ giúp các em học sinh định hướng được nội dung chính của đoạn thơ. Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới. Giữa rừng hoa thơ mới, ông nổi bật với bút lực dồi dào và phong cách sáng tác đa dạng. Nếu sau cách mạng tháng Tám thơ ông sôi nổi, nhiệt huyết phù hợp với không khí đổi mới của thời đại thì trước cách mạng Huy Cận được biết đến là một hồn thơ u sầu, ảo não. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác trước cách mạng và cũng chính là cái “tôi” cô đơn, ảo não của Huy Cận trước thời cuộc. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ ba, nhà thơ đã bộc lộ rõ nét nỗi nhớ quê hương, tâm trạng cô đơn, khắc khoải trước không gian sông nước mênh mông, buồn vắng. Tràng giang được Huy Cận sáng tác trong một buổi chiều mùa thu, khi tác giả đứng ở bến đò Chèm ngắm nhìn cảnh sông nước mênh mang. Và cũng có lẽ do được sáng tác trong một không gian đặc biệt như vậy nên nhà thơ cảm nhận thấm thía được sự nhỏ bé, đơn độc của mình giữa thời cuộc. Trong khổ thơ thứ ba của bài, từng câu thơ đều khắc khoải một nỗi buồn man mác. Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 2 Tràng Giang 🌠 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Khổ 4 – Mẫu 18 Các em học sinh sẽ cần đến mẫu mở bài Tràng giang khổ 4 dưới đây để tham khảo thêm cho mình những gợi ý phong phú hơn. Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi cuống quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn Tràng giang của ông. Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 4 – Mẫu 19 Tham khảo cách viết mở bài Tràng giang khổ 3 4 dưới đây để nắm được nội dung cơ bản của một mở bài chuẩn và đầy đủ ý. Những cung bậc cảm xúc của con người thường được con người ẩn giấu qua những câu hát, giai điệu, câu thơ câu văn. Chính các nhà văn, nhà thơ thường bày tỏ nỗi lòng của mình qua các câu chữ thấm đậm tình. Huy Cận là một trong những nhà thơ như vậy. Độc giả luôn cảm nhận được tâm trạng của ông qua các bài thơ ông sáng tác. “Tràng giang” – một tác phẩm không thể không kể đến, một tác phẩm kiến người đọc phải bồi hồi trong cảm xúc của tác giả. Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu muộn của mình trong đó. Bài thơ Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả. Đặc biệt là hai khổ thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế. Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Tràng Giang 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Khổ Cuối – Mẫu 20 Đón đọc mẫu mở bài Tràng giang khổ cuối dưới đây sẽ hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài và hoàn thiện bài viết. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc. Bài thơ “Tràng giang” được trích từ tập “Lửa Thiêng” thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang. Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng. Tiếp theo đón đọc ☀️ Mở Bài Vội Vàng Xuân Diệu ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Với Những Gợi Ý Phân Tích Giàu Ý Nghĩa. Dàn Ý Phân Tích Khổ 4 Tràng GiangPhân Tích Khổ 4 Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3Phân Tích Tràng Giang Khổ 4 Ngắn Nhất – Mẫu 4Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 5Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Facebook – Mẫu 6Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 4 – Mẫu 7Bài Phân Tích Khổ 1 4 Tràng Giang Chọn Lọc – Mẫu 8Phân Tích Khổ 1 Và 4 Bài Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 9Phân Tích Khổ 3 4 Tràng Giang Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 10Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Chi Tiết – Mẫu 11Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Hay Và Đầy Đủ – Mẫu 12Phân Tích 4 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang – Mẫu 13Phân Tích 4 Khổ Thơ Cuối Bài Tràng Giang – Mẫu 14 Lập dàn ý phân tích khổ 4 Tràng giang sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm chính để triển khai bài viết. Tham khảo mẫu phân tích khổ 4 Tràng giang dàn ý ngắn gọn dưới đây I. Mở bài Giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang II. Thân bài Phân tích khổ thơ cuối bài Tràng Giang câu đầu Màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơHình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờHình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặngHình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô đọng của tác giả câu cuối Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiênNỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bậtKhát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước III. Kết bài Nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài Tràng giang Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Tràng Giang ☔ 12 Mẫu Tóm Tắt Hay Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1 Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 4 Tràng giang Huy Cận dưới đây sẽ giúp các em học sinh có được những định hướng viết bài cụ thể nhất. Đọc thơ của Huy Cận người đọc cảm nhận rõ được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu nặng trong lòng ông. Bằng tình yêu nồng nàn và luôn cháy trong tim ông luôn hướng về quê hương đất nước dù hiện tại ông đang đứng trên mảnh đất quê hương. Khổ cuối bài Tràng giang là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tác giả với tình yêu quê hương đất nước yêu cảnh sắc quê hương vì thế mà bức tranh thiên nhiên vẫn tiếp tục được mở ra với những chi tiết mới “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Câu thơ đầu đã gợi mở ra cảnh phía chân trời xa, những đám mây trắng chồng xếp lên nhau trùng trùng điệp điệp dưới phản chiếu ánh dương lấp lánh như núi bạc. Huy Cận học ý thơ của Đỗ Phủ qua bản dịch nghĩa của Nguyễn Công Trứ “Mặt đất mây đùn từ ải xa.” Đã phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng đẹp một cách tráng lệ lung linh. Nhưng đến câu thơ thứ hai “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Thơ xưa khi nói đến chiều thường buồn điểm xuyết trên nền không gian là cánh chim về tổ. Huy Cận vẽ cánh chim trao nghiêng đặt trong dấu hai chấm như để nhấn mạnh cả bóng chiều như rơi xuống góp phần gợi nỗi buồn da diết về sự bé nhỏ của con người giữa cuộc đời. Không gian rộng lớn bao la nhưng lại làm cánh chim nghiêng ngả với đôi cánh nhỏ của mình. Nhưng trong câu thơ trên Huy Cận có nhắc đến thời điểm “bóng chiều” là là khoảng thời gian đặc trưng cho tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương da diết của những người con xa quê chính vì thế mà hai câu tiếp theo đã bộc lộ rõ tâm trạng ấy “Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Lần đầu tiên thi sĩ bộc lộ tâm trạng nỗi nhớ quê hương được hiện lên từ khói hoàng hôn, từ con nước dợn dợn. Nó đã gợi ta nghĩ đến cảm giác đang rợn lên trong tâm trí con người hay những con sóng nhấp nhô trên sóng nước rất khó phân định chỉ biết qua từ “dợn dợn” sóng nước, sóng lòng đang hòa quyện vào nhau mênh mang trên dòng sông. Chỉ biết tấm lòng thương nhớ quê hương không chỉ ở trong ý thức mà đã xâm lấn cảm giác của con người thấm thía. Câu thứ 4 “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” tính đối thoại với một tình cảm quan niệm thơ đi trước cho ta nghĩ đến tiếng thơ của Thôi Hiệu “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Với Huy Cận không cần khói sóng nào cần đến tác dụng của ngoại cảnh mà vẫn nhớ quê hương, nỗi niềm thương nhớ luôn thường trực trong lòng người. Đó là cách bày tỏ tình cảm thật sâu sắc. Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Đứng trên quê hương, đất nước mà vẫn nhớ quê hương đất nước. Phải chăng đó là nỗi buồn sông núi của một trí thức yêu nước sống trong thân phận vong quốc nô, nỗi buồn của một thế hệ thanh niên yêu nước sống dưới thời Pháp đương thời. Bức tranh thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ đẹp kì vĩ mĩ lệ của khung cảnh trời chiều đậm màu sắc nhưng bức tranh quá rộng lớn làm đầy lên nỗi cô đơn nhớ thương khắc khoải của nhân vật trữ tình. Tràng giang là tiếng buồn của hồn thơ Huy Cận được gợi lên từ sự đối lập giữa không gian mênh mông cao rộng với nhỏ bé mong manh. Nỗi buồn không hoàn toàn vô cớ đó là nỗi buồn thương về kiếp người cuộc đời về quê hương đất nước. Nỗi buồn gắn với quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ mới cái đẹp sánh đôi với cái buồn. Đó cũng là nỗi buồn của thế hệ thanh niên mà trong thơ của Huy Cận thường đem nỗi buồn vào vũ trụ bao la. Bài thơ còn là sự kết hợp hài hào giữa yếu tố cổ điển và hiện đại với các nghệ thuật thất ngôn trường thiên, phép đối ngẫu, thi tứ, bút pháp tả cảnh ngụ tình lấy điểm tả diện đã làm nổi bật khổ cuối của bài thơ. Tuy chỉ là một khổ thơ nhưng khổ thơ cuối lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bộc lộ tâm trạng của Huy Cận khi đứng trên quê hương ngắm nhìn cảnh đẹp kì vĩ trên đất nước mình mà trong lòng không khỏi bồi hồi xúc động từ đó bộ lộ tình yêu thiên nhiên yêu quê hương kín đáo mà cũng tha thiết của tác giả. Khi ta phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang dường như nó giúp khơi gợi trong chúng ta tình yêu quê hương đất nước tha thiết, yêu cảnh sắc quê hương mình từ đó mà dạy chúng ta cách trân trọng cuộc sống, trân trọng những gì đang có. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Bài Tràng Giang Chuẩn Nhất 🍀 Mẫu Nghị Luận Hay Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2 Đón đọc bài văn mẫu phân tích khổ 4 Tràng giang hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây với những ý văn đặc sắc. Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại được nhắc đến như là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Trước không gian ấy, ông thường bày tỏ cảm xúc buồn sầu đến mức ảo não, tuy nhiên ẩn sau nỗi sầu đó là khát khao tình đời, tình người. “Tràng giang” là một bài thơ như thế. Qua chặng đường ba khổ thơ đầu thể hiện tâm trạng buồn sầu của nhà thơ trước không gian bao la rợn ngợp, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc thấy được tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tràng giang được sáng tác vào năm 1939, cảm hứng được gợi từ cảnh thiên nhiên bao la của sông Hồng. Bài thơ là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất được in trong tập “Lửa thiêng” 1940. Xuyên suốt ba khổ thơ đầu là nỗi buồn của Huy Cận từ nỗi sầu khi đối diện trước không gian mênh mông đến tâm trạng cô đơn trước bức tranh thiên nhiên được mở rộng về nhiều phía và sau đó là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. Vậy nhưng, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc lại thấy được niềm khao khát gắn kết, tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả. Ở đây, cái nhìn của Huy Cận như hướng lên trời cao để cảm nhận bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Đám mây – cánh chim vốn là motip quen thuộc trong thơ ca khi nói về trời chiều như “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” Bà Huyện Thanh Quan hay “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” Chiều tối – Hồ Chí Minh để gợi nỗi buồn xa Cận cũng đã đưa những hình ảnh quen thuộc đó vào “Tràng giang” càng nhấn mạnh hơn bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ nhiên hiện lên với Mây cao đùn núi bạc, với cảnh huy hoàng, tráng lệ biết bao. Thế nhưng, hình ảnh đó dường như cũng khắc họa tâm trạng buồn bã, cô đơn của con người trước không gian bao la rộng lớn bởi chim thì “mỏi” còn mây thì “trôi nhẹ” lững lờ. Không chỉ vậy, hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa đã khéo léo vẽ ra sự đối lập giữa cái nhỏ bé – cái bao la. Lời thơ giải thích phải chăng nhấn mạnh chỉ một cánh chim nhỏ nghiêng cánh cũng khiến cho bóng chiều “sa xuống” . Câu thơ đã khắc họa cảnh thiên nhiên rộng hơn, tráng lệ và hùng vĩ hơn nhưng cũng buồn hơn. Không chỉ thể hiện cảm xúc buồn sầu một cách gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên, mà ở đây nỗi khát khao tình đời, tình người của Huy Cận như bật ra một cách trực tiếp Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Từ láy dợn dợn đã miêu tả cảm xúc dâng trào mãnh liệt giống như sóng nước, động từ “vời” dường như nhấn mạnh nỗi cồn cào, hụt hẫng, chới với trong cảm xúc đồng nhất với ngoại cảnh. Bởi vậy lúc này, hồn thơ Huy Cận tha thiết nỗi “Nhớ nhà”. Đó là nỗi nhớ về nơi chôn rau cắt rốn hay là đang nhớ về đất nước, tổ quốc mình? Đây là nỗi nhớ kín đáo, thể hiện nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên dưới thời thuộc Pháp, sống trên đất nước mình mà luôn có cảm giác bơ vơ, lạc lõng. Câu thơ cuối “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ ý thơ quen thuộc trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu”Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà – tức là nỗi nhớ nhà được gợi lên từ ngoại cảnh, thì Huy Cận nhớ nhà mà không cần đên hoàng hôn – nỗi nhớ nhà không phụ thuộc vào ngoại cảnh, do đó nó càng mãnh liệt, thấm thía hơn bao giờ hết. Có thể nói, khổ thơ kết bài “Tràng Giang” đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ dành cho quê hương đất nước. Càng thấm thía nỗi cô đơn, hiu quạnh, con người càng khát khao tình đời, tình người. Bởi vậy, đúng như Xuân Diệu từng cho rằng “đây là bài thơ dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận”. Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Mở Bài Tràng Giang 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3 Dưới đây chia sẻ bài phân tích khổ 4 Tràng giang ngắn gọn để các em học sinh tham khảo và chuẩn bị cho bài viết trên lớp. Cùng với các nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,… Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới nói riêng và thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung. Mỗi tác phẩm của mình, ông đề gửi vào trong đó nỗi buồn nhân thế về cảnh ngộ của non sông đất nước và số phận con người. Huy Cận còn là người yêu thơ ca Việt Nam, yêu thơ Đường và chịu ảnh hưởng của thơ ca Pháp, phong cách và đặc điểm sáng tác này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tràng giang”. Nếu như trong ba khổ thơ đầu của bài thơ Tràng giang, mỗi câu mỗi chữ mỗi hình ảnh đều như gợi lên trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên tha thiết tình người, mang nặng nỗi sầu của thi nhân trước cái vắng lặng của cảnh vật, nỗi cô đơn của con người thì đến khổ thơ cuối cùng của bài thơ nỗi buồn ấy như lan tỏa khắp mọi không gian, thời gian và đặc biệt, chúng ta sẽ nhận thấy tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng của tác giả dường như được hiện rõ trên từng câu chữ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ với những hình thơ cổ điển, giàu tính ước lệ, tượng trưng thường thấy trong thơ ca cổ điển giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về nỗi buồn của tác giả trước khung cảnh chiều tà. Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Câu thơ mở đầu khổ thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, lớn lao vừa gần gũi, thân quen. Bức tranh ấy được vẽ nên từ hình ảnh những đám mây trời – một hình ảnh thường thấy trong thơ ca trung đại. Thêm vào đó, việc sử dụng từ láy “lớp lớp” ở đầu câu thơ cùng với động từ “đùn” đã gợi nên khung cảnh một bầu trời đầy những lớp mây, tất cả ánh lên như “núi bạc”. Và để rồi, trên nền trời ấy, tác giả dùng bút pháp chấm phá, điểm lên trên nó hình ảnh cánh chim chiều – “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Câu thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” có nhiều cách hiểu. Đó có thể cánh chim chiều kéo buổi chiều buông xuống nhưng nó cũng có thể là sức nặng của buổi chiều đang đè nặng lên cánh chim làm nó nghiêng lại. Nhưng dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ cũng không đơn thuần chỉ không gian mà nó còn gợi lên cả nhịp bước của thời gian – đó chính là buổi chiều tà bởi lẽ hình ảnh cánh chim là thi liệu cổ điển, nó luôn gợi đến cảnh chiều tà. Và để rồi, hai câu thơ đã vẽ khung cảnh một bức tranh thiên nhiên buổi chiều hùng vĩ, êm đềm. Không dừng lại ở đó, hai câu thơ cuối của khổ thơ đã thể hiện một cách sâu sắc, chân thực nỗi niềm, tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Lòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhá Có thể nói, hai câu thơ đã diễn tả trực tiếp nỗi niềm tâm trạng, cảm xúc của tác giả. “Lòng quê” chính là nỗi nhớ quê hương, đất nước. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ “dờn dợn” từng cơn, từng đợt tuôn trào ra. Dường như, nỗi nhớ ấy của tác giả như tuôn trào, bao trùm khắp cả dòng nước đang chảy trôi kia. Và đặc biệt, nỗi nhớ nhà, nhớ quê ấy như luôn thường trực trong trái tim, trong nỗi lòng của tác giả bởi lẽ, với tác giả “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Tóm lại, bài thơ “Tràng giang” nói chung và khổ thơ cuối của bài thơ nói riêng đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về nỗi lòng của tác giả đối với quê hương, đất nước. Đồng thời, qua đó cũng cho ta thấy tài năng của Huy Cận trong việc sử dụng và sáng tác các hình ảnh thơ cổ điển. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 4 Ngắn Nhất – Mẫu 4 Chia sẻ bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 4 ngắn nhất dưới đây với những ý văn cô đọng và hàm súc nội dung. Huy Cận thơ của ông mang nhiều nỗi buồn cảnh vật và thế sự. Nỗi buồn đó về những con người, kiếp người và về quê hương đất nước. Bài thơ Tràng Giang chính là nơi tác giả bài thơ nhiều tình cảm của bản thân với quê hương, đất nước. Đặc biệt trong khổ cuối thể hiện nỗi sầu của thi nhân và nhân thế. Trong ba khổ đầu, tác giả dùng biện pháp tả cảnh ngụ tình để mô tả những con người nhỏ nhoi, thấp cổ bé họng thì trong khổ cuối, ông đã hòa chung sự cô độc bản thân vào nỗi nhớ quê nhà nhớ quê lên tầng thiên nhiên cao, rộng lớn hơn nhiều Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Một câu thơ tưởng như đơn giản nhưng khiến người đọc choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây. Từ láy lớp lớp khiến cho chúng ta có cảm giác mây như dày, tầng lớp và núi mây có màu bàng bạc, huyền ảo. Huy Cận còn lấy cảm hứng từ trong thơ Đỗ Phủ vào bài thơ. Các cụm từ đùn và lớp lớp khiến không gian như rộng và cao hơn rất nhiều. Điều này khiến nhân vật trữ tình đã cô độc nay lại còn nhỏ nhoi trước thiên nhiên. Hình ảnh núi mây Huy Cận còn khiến độc giả có sự liên tưởng về nỗi buồn trong lòng Huy Cận xếp chồng lớp lên nhau đó là tâm trạng sầu thảm của chính tác giả. Giữa không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn còn có cánh chim nhỏ bé Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Thơ Huy Cận cánh chim không thật sự tĩnh lặng mà nó đang đập cánh chao nghiêng trong một không gian thiên nhiên vô tận. Hai câu thơ cuối Huy Cận cảm thấy cô độc, lẻ loi và nhớ nhà da diết Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Dợn dợn từ ngữ chỉ có trong thơ của Huy Cận, ông lại sáng tạo ra một từ láy riêng cho mình. Hai thanh nặng như là nỗi buồn của tác giả vào hố sâu tuyệt vọng. Từ dợn dợn tựa như những con sóng dợn buồn trong lòng nhà thơ Huy Cận. Câu thơ cuối của Tràng giang dựa trên nền thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê còn Huy Cận lại phát triển thêm ý thơ đó là “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, đối với ông tình yêu quê hương, đất nước trong lòng ông lúc nào cũng có sẵn mà không cần một thứ xúc tác nào khác. Trong Tràng Giang khổ thơ cuối đặc biệt với sự u ám và thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương của chính tác giả. Qua bài thơ tác giả mong muốn cuộc sống này trở nên ý nghĩa và tốt đẹp. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Kết Bài Tràng Giang 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 5 Tài liệu văn phân tích khổ 4 Tràng giang học sinh giỏi dưới đây sẽ mang đến cho bạn những phân tích sâu sắc và giàu ý nghĩa. Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi cuống quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn Tràng giang của ông. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn” thế hệ mang tính thời đại, một nỗi buồn không tìm ra lối thoát nó như kéo dài triền miên, nó như dàn trải theo mênh mông vô địch của sông nước, thì tới khổ thơ cuối tâm trạng ấy được nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn của buổi chiều tàn. Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Ở dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy không gì vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng cũng không gì buồn bằng cái buổi ngày tàn của“bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy trong thơ Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình quả núi và đằng sau hình quả núi ấy là một mặt trời chói lọi sắp tắt khiến cho núi mây trở thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm có khi hoàng hôn đang lụi dần, không gian dường như có một sự vận động lặng lẽ mây cứ đùn lên mãi chiếm lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cũng đầy nỗi buồn rợn ngợp. Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong cái bể trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn nương thân da diết nhớ quê hương Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ “trôi nổi mông lung lạc loài vô định”, một cành củi khô bập bềnh trôi trên sông củi một cành khô lạc mấy dòng, một đám bèo xanh trôi nổi trên sông bèo dạt về đâu hàng nối hàng. Với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn lạc loài. Đó là một cánh chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa vắng. Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá, nỗi buồn ở đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa. Nếu như câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng một tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” chứ không phải là “xa”. Phải chăng cái nỗi buồn cô đơn cùng nỗi buồn “sầu nhân thế” đó càng gợi lên trong nỗi buồn của nhà thơ. Nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô tận của không gian đối lập với kiếp người. Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Chuyển sang câu thơ thứ ba đột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải là ánh mắt nhìn vào mình, nhìn theo đến hun hút vào “tràng giang” mà chính là cõi lòng nhìn vào mình rồi nhìn về phía chân trời xa xôi. “Lòng quê” đó là nỗi lòng nhớ quê hương. Và cũng có nghĩa diễn nôm na là của người trí thức tây học này vốn đã bị thị thành hóa giờ đây nó đang trở lại thành tấm lòng của người cố hương giàu tình làng nghĩa xóm. Hai nghĩa trên nó sẽ định ra cho sự giải thoát cô đơn. Phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về chính quê hương mình. Hai tiếng “dợn dợn” gợi lên muôn nhịp sóng sóng nước, sóng lòng diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê cố hương Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu thời Đường cũng là tâm tình quê của Huy Cận. Với Huy Cận lòng quê đã nhớ quê sẵn. Đó là nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre. Vì thế không có một sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm lòng ấy vẫn đăm đắm hướng về quê nhà để hi vọng kiếm một chút niềm thân mật ở làng quê sông nước, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mới đọc bài thơ Tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. Nó rất hoang vắng, nó độc thoại với chính nó. Thế nhưng bốn dòng thơ cuối bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị đô hộ càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng “ảo não” bấy nhiêu. Phải chăng ai đó đã nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất, tiềm ẩn nhất với đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang đã khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu Tổ quốc, tình yêu giang sơn đất nước. Tiếp theo đón đọc 🌟 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Facebook – Mẫu 6 Chia sẻ bài phân tích khổ 4 Tràng giang Facebook dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình gợi ý làm bài phong phú hơn. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc. Bài thơ “Tràng giang” được trích từ tập “Lửa Thiêng” thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang. Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc….Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Đây là khổ thơ kết tinh của làng quê “dợn dợn vời con nước” của Huy Cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha với quê hương, đất nước. Hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Cách cảm nhận của nhà thơ hết sức tinh tế tạo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều “lớp lớp mây” chồng xếp lên nhau thành núi mây trắng trông như được dát bạc. Từ “đùn” rất giàu giá trị tạo hình gợi nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ “Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa” Một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà “Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch “Cửa đầu vọng minh nguyệt – Đê đầu tư cố hương”? Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu. Thế nhưng Thôi Hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. Còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! Từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng! Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lòng mình trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương , đất nước tha thiết. Là khổ thơ xuất sắc nhất trong tác phẩm, và cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất nét tâm trạng của một chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Thế mới hiểu vì sao người ta nói Huy Cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. Nhờ kết hợp những biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách thơ mới tài năng. Và Huy Cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn không thể tách rời với văn học Việt Nam. Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 1 Tràng Giang 💕 Những Bài Phân Tích Hay Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 4 – Mẫu 7 Hai khổ thơ mở đầu và kết thúc Tràng giang được đánh giá là những dòng thơ hay nhất trong tác phẩm. Tham khảo bài phân tích Tràng giang khổ 1 4 dưới đây Cù Huy Cận 1919-2005, bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như thế. Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp thể hiện sâu kín nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương. Nhan đề “Tràng giang”, là một nhan đề hay khi gợi mở ra không gian rộng lớn bằng cách điệp vần “ang”, tạo cảm giác kéo dài, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất, đồng thời nhan đề hán việt này cũng mang đến cho tác phẩm sắc thái cổ kính, trầm lặng, chất chứa nhiều tâm tư, nỗi buồn sâu kín. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng trời sông nước quá đỗi rộng lớn, mà con người lại chỉ như hạt cát nhỏ, lạc lõng, chơ vơ, không biết phải đi đâu về đâu, không biết bản thân tồn tại, trong trời đất này có nghĩa lý gì. Điều đó khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh đầy đau thương của đất nước lúc bấy giờ, Huy Cận bản thân là một trí thức tiểu tư sản, nhưng trước thế sự rối ren lại trở nên bế tắc, không thể tìm thấy con đường sáng, và khi đứng trước sông nước mênh mông, ông lại càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Điều đó thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi mà cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại lấy thiên nhiên mà bộc lộ những nỗi niềm sâu kín, đem đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ, hấp dẫn. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Ở khổ thơ đầu tiên ta thấy mở ra là hình ảnh một bức tranh sông nước buồn vắng và ảm đạm, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ cũng được thể hiện một cách rõ nét. Hình ảnh “tràng giang” tức là một con sông vừa rộng lại vừa dài, tưởng chừng như kéo dài đến vô tận, thế nhưng lòng sông lại hết sức yên tĩnh, dòng sông lớn thế mà sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt tựa như cảnh “dòng nước buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Không chỉ vậy cái buồn còn được bộc lộ một cách trực tiếp và rõ ràng trong mấy từ “buồn điệp điệp”, tức là cái buồn nỗi buồn, chồng chất lên nhau lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm thầm, trông có vẻ mờ nhạt nhưng thực tế lại sâu sắc vô cùng. Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, đó là một cảnh tượng gợi ra nhiều nỗi cô đơn, thuyền qua thuyền lại biết bao lần, nhưng chưa chắc một lần thuyền hiểu được nỗi lòng sông, nỗi lòng con nước. Vốn dĩ thuyền – nước hô ứng, phối hợp với nhau ấy nhưng khi vào thơ Huy Cận dường như chúng lại chẳng giao hòa, cứ song song với nhau, rồi “thuyền về nước lại” càng gợi sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót. Thêm nữa từng con thuyền ấy lại vướng biết bao nỗi sầu, và dường như nó còn chuyên chở cả nỗi sầu mênh mông của người, của cảnh đi khắp trăm ngả, không dừng đợi. Câu cuối đoạn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, chính là tâm sự, là nỗi niềm, là thân phận của tác giả. Giữa mênh mông sóng nước như thế, lại chỉ có một nhánh củi khô nhẹ bẫng, trơ trọi, đơn độc lênh đênh không biết trôi dạt về đâu. Cũng như chính Huy Cận hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc, không có tiếng nói, sức ảnh hưởng, không biết rồi mai đây số phận đẩy đưa, thời thế đất nước sẽ ra sao, bất lực và bế tắc vô cùng. Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại khi tác giả khéo léo bộc lộ cái tôi, nỗi buồn cá nhân trước thế sự, thì vẻ đẹp cổ điển còn được in đậm bằng các từ láy “điệp điệp”, “song song”, những từ hán việt “sầu”, “tràng giang” mang đến cho bức tranh thiên nhiên sông nước vẻ đẹp cổ kính, đượm buồn. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Đến khổ thơ cuối, vẻ đẹp cổ điển, lãng mạng trong phong cách sáng tác của Huy Cận càng được thể hiện rõ ràng trong khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, cùng những chất liệu thơ quen thuộc trong Đường thi. Đó là nét cổ điển với bút pháp chấm phá “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mây vờn quanh núi từng lớp, từng lớp dày đặc, đầy nội lực, mạnh mẽ với từ “đùn” khiến cho ngọn núi phủ một màu trắng ngà. Dưới ánh nắng mặt trời những ngọn núi ấy trông như được dát bạc, tạo nên cảnh tượng hùng vĩ hiếm có, đồng thời cũng thể hiện sức sáng tạo trong thơ ca của tác giả, với những liên tưởng thú vị. Và trên cái khung cảnh tráng lệ ấy xuất hiện một cánh chim nhỏ bé, lạc lõng “Chim nghiêng cánh nhỏ Bóng chiều sa”, là chim nghiêng cánh để bóng chiều sà xuống bao trùm khắp không gian, hay là bóng chiều đổ xuống làm nghiêng đi cánh chim nhỏ bé, chao liệng, chất chứa nhiều nỗi cô đơn. Có thể nói rằng hình ảnh cánh chim luôn là một thi liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển, là dấu hiệu của buổi hoàng hôn, của buổi chiều tà, mang đến cho con người những nỗi bâng khuâng, bất định trong tâm tưởng khi nhìn bóng chim bay lưng trời mà chưa thấy một điểm dừng nhất định. Hai câu thơ cuối cùng dù vẫn dùng chất liệu thơ cổ, thế nhưng nội dung thơ lại đậm tính hiện đại, khi trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê nhà tha thiết của tác giả. “Lòng quê dợn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, trước những cảnh tượng mênh mông rộng lớn, hùng vĩ đến thế nhưng bản thân người thi sĩ lại cô đơn, không có nổi một chốn cho tâm hồn nương tựa. Trước những nỗi sầu bi bất định như thế, Huy Cận không khỏi nhớ nhà, nhớ quê nơi đã sinh ra, cho lữ khách hơi ấm yêu thương, để vơi bớt đi những quạnh quẽ, chua xót trong lòng. Nỗi nhớ ấy tha thiết đến độ không cần đến “khói hoàng hôn”, ánh lửa bữa cơm chiều từ những căn bếp mà lòng vẫn đượm một nỗi nhớ mong sâu nặng. Ấy rồi mở rộng ra nỗi nhớ quê đau đáu của Huy Cận lại diễn ra khi chính bản thân tác giả đang đặt chân ở mảnh đất quê mình, ta mới hiểu được rằng nỗi nhớ quê chính là lòng yêu nước thầm kín, Huy Cận nhớ về những ngày đã xa, khi đất nước còn yên ấm, tươi đẹp, khác hẳn với hiện thực đau thương, buồn bã. Mà trước cảnh tượng ấy, ông lại chỉ có thể bất lực trước thời thế rối ren, luẩn quẩn trong chính sự bế tắc của tâm hồn với những nỗi sầu bi bất định, nghe thật chua xót. Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình, ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu nặng. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong Tràng giang bằng lối thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. chia sẻ 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌹 Văn Mẫu Hay Bài Phân Tích Khổ 1 4 Tràng Giang Chọn Lọc – Mẫu 8 Bài văn mẫu bài phân tích khổ 1 4 Tràng giang chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi thêm cho mình những ý văn hay và đặc sắc. Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo. Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát. Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ. Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới. Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào Lòng quê dờn dợn vợi con nướcKhông khói hoàng hôn cùng nhớ nhà. Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng. Tham khảo trọn bộ 🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌼 Văn Mẫu Tuyển Chọn Phân Tích Khổ 1 Và 4 Bài Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 9 Với bài văn mẫu phân tích khổ 1 và 4 bài Tràng giang đặc sắc dưới đây, các em học sinh có thể chắt lọc cho mình những luận điểm phân tích đa chiều và sâu sắc. Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình. Ở khổ thơ cuối, bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt. Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào “Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết “Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu”. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,.. Qua 2 khổ thơ đầu và cuối tác phẩm, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang 💧 ay Nhất Phân Tích Khổ 3 4 Tràng Giang Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 10 Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 3 4 Tràng giang ngắn gọn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh ôn tập tác phẩm và chuẩn bị tốt cho bài kiểm tra trên lớp. Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu muộn của mình trong đó. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả. Đặc biệt là hai khổ thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, trong bối cảnh không gian mênh mông sông nước trời biển bao la, thời gian là cảnh chiều tà, nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn. Một nỗi buồn nhân thế không biết tỏ bày cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào những câu thơ của riêng mình. Trong câu thơ “mênh mông” hai từ láy này gợi lên cho người đọc sự sầu muộn bao la, trước cảnh sông chiều nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, càng làm cho lòng người thêm man mác. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa không gian và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mông thì con người càng cảm thấy mình thật cô đơn bé nhỏ, lạc lõng biết bao nhiêu. Khung cảnh thiên nhiên thể hiện như tâm trạng của nhà thơ Huy Cận lúc này đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa đất trời sông nước bao la không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn cứ thế mà xô sóng ở trong lòng, con người cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện tại. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn. Thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người đọc cảm giác buồn thê lương, não lòng, đúng như câu thơ của Nguyễn Du viết trong tác phẩm Truyện Kiều rằng Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để thể hiện sự cô đơn, lẻ loi buồn chán của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời. Tác giả Huy Cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian bao la rộng lớn, mênh mông của đất trời, vũ trụ… “Lòng quê rờn rợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trong hai câu thơ này thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả Huy Cận. Người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái để hướng tới quê hương, gia đình, hướng tới người thân thương nhất của mình. Nhưng Huy Cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thể hiện nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực, nó luôn chứa đựng in sâu trong lòng tác giả, không cần phải có chất xúc tác là khói lam chiều mới nhớ. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ vô cùng hay thể hiện bức tranh quê hương trong cảnh hoàng hôn vô cùng tươi đẹp, sinh động, với hình ảnh thân thuộc như cánh chim, mây trời, sông nước, rồi những cánh bèo trôi… Qua hai khổ cuối bài Tràng giang, chúng ta có thể thấy tất cả đều gợi lên một bức tranh chiều tà vô cùng tinh tế, tươi đẹp nhưng thể hiện một nỗi sầu nhân thế vô cùng sâu sắc trong lòng tác giả. Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài 🌜 10 Bài Văn Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Chi Tiết – Mẫu 11 Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 3 4 chi tiết để các em học sinh cùng tham khảo và vận dụng để hoàn thành tốt bài viết của mình. Huy Cận tưởng như là người lữ khách với niềm đam mê bất tận về một vẻ đẹp buồn âu sầu ảo não, vậy nên thi nhân đã không ngại bỏ buồn vào không gian, lượm lặt từ những chất thơ tế vi mỏng manh của tạo vật để làm nên những bức tranh không gian mang nỗi hoài cổ của chính mình. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang là những vần điệu mang đậm nét âm hưởng ấy. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hình ảnh cánh bèo từ bao lâu nay gửi mình vào trong thơ luôn là hình ảnh gợi về sự mỏng manh, vô định và rẻ rúm của kiếp người. Trên điệu chảy nhịp trôi chầm chậm của câu thơ này, một lần nữa xúc cảm ấy lại được gợi về. Những hàng bèo nối đuôi nhau, cứ chảy trôi bất tận, dòng sông hay cũng chính là dòng đời vô định chảy trôi khiến cho kiếp người bé nhỏ cảm thấy bơ vơ, bế tắc và mất phương hướng. câu thơ mang âm hưởng buồn man mác, một nỗi buồn đậm chất Huy Cận. Nhất là hình giữa dòng mênh mông vô bờ ấy, một chuyến đò ngang gợi niềm thân mật, gợi sự kết nối cũng không xuất hiện dù chỉ thoáng qua, mà còn lại đây chỉ đơn côi với những cánh bèo vô thức trôi. Chính vì thế không gian sông nước vốn dĩ mênh mông, vốn dĩ đã làm nên những biển buồn bất tận bỏ vào lòng người, nhưng nay không chỉ là sức gợi vô tận về nỗi buồn mà còn mang một chiều sâu khác về sự đứt gãy nối kết. Biểu tượng cây cầu bao giờ cũng là điểm tựa để cho người đọc cảm nhận mãnh liệt nhất về sự gắn kết, của sự gắn bó và nối tiếp. Thế nhưng ở đây, nó không xuất hiện phải chăng là một chỉ dấu ngầm cho sự đứt gãy kết nối, đứt gãy những mắt xích gắn kết, hay cũng là một chỉ dấu để độc giả cảm nhận được về sự cô đơn trống vắng hoang hoải đến bất tận trong tâm hồn con người. Còn đò ngang là nơi bấu víu, là nơi con người tìm đến để có thể vượt qua cách trở về không gian mà đến gần với nhau hơn, nhưng giờ đây ngay cả điểm tựa duy nhất ấy cũng đã biến mất không dấu vết. Trả lại cho nhân vật trữ tình chỉ là những bãi trống hoang hoải cô liêu của bờ xanh bãi vàng. Ta bỗng nhớ đến hình ảnh những bãi xanh hun hút bận tận không cùng trong câu thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. Các tính từ, các từ láy “lặng lẽ” một lần nữa nhấn thêm vào sự trống vắng, mênh mông và cô đơn vời vợi của tâm hồn, của lòng người. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Khổ thơ cuối có thể coi là tuyệt bút tuyệt hoa mà Huy Cận đặc dùng. Mây cao núi bạc, khung cảnh mới thật hùng vĩ, tráng lệ làm sao, đó là những chất liệu mang màu cổ điển được họa sĩ Huy Cận vờn phối cho bức tranh chiều tà nhuốm màu buồn man mác của chính mình. Khiến cho chỉ một câu thơ ngắn, nhưng lại gợi về thăm thẳm những mênh mông và rợn ngợp từ quá khứ đuổi về hiện tại, từ cổ điển gọi về hiện đại. Cánh chim gọi buổi chiều, tín hiệu ấy dường như không còn xa lạ nữa, thế nhưng vào trong thơ Huy Cận nó vẫn chở những xúc cảm của riêng nhà thơ vào trong đó. Tưởng như cánh chim nhỏ bé và đơn côi ấy, đã chờ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh của mình, tưởng như đã chở cả cái không cùng và cô đơn vời vợi của kiếp người ở trên đó. Dấu hai chấm tưởng như một sự ngăn cánh, để làm điểm nhấn cho độ nghiêng rất nghệ mà cũng rất tinh của cánh chim nhỏ, hay có thể là dụng ý của nhà thơ để cả câu thơ nâng đỡ cả điệu hồn của thi nhân gửi vào đó. Hai câu thơ cuối, đứng trước thiên nhiên rộng lớn mênh mông, thi nhân bỗng trào dâng một nỗi nhớ nhà khôn nguôi, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ luôn trở đi trở lại như một lời khấn khứa, như một khắc khoải khôn nguôi xuất phát từ tấm lòng của một cái tôi đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu vắng quê hương. Hoàng hôn thường là mốc thời gian gợi nhớ gợi buồn, nhưng ở đây không gian ấy chỉ đơn thuần là ngoại giới, còn trong nội tâm nhà thơ, thì toàn bộ tâm hồn đã hướng trọn về tình quê mất rồi. Lấy cái không để gợi về cái có, để gợi về nỗi lòng, để khơi gợi sự đồng điệu đó chính là cái tài trong bút thơ Huy Cận. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang, dường như là những mạch chảy mạnh mẽ nhất của tâm trạng thi nhân, tưởng như nếu lắng mình nghiêng lòng xuống trang sách có thể cảm được điệu tâm hồn buồn và cô đơn của cái tôi thơ Mới chở mang trong đó. Giới thiệu tuyển tập 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Hay Và Đầy Đủ – Mẫu 12 Bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 3 4 hay và đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài. Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong phần phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng giang dưới đây Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hắt hiu Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trôi theo dòng nước mà không biết trôi về đâu, tựa như dòng đời bơ vơ, vô định, cảm thấy mình bất lực và nhỏ bé. Ở đây có sự đối lập giữa những thứ đang có và những thứ không có. Chỉ có dòng nước mênh mông với những cánh bèo nối tiếp nhau trôi trong vô định, không có lấy một cây cầu dù chênh vênh, không có lấy một con đò dù nhỏ bé. Hai bên bờ sông mà như hai thế giới, không có một chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới. Hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, ko chút thân mật, không chút giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. Giữa trời đất bao la nhưng không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu mình. Nỗi cô đơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương. Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này. Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn, Người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chất chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một tác động nào từ bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê. Qua 2 khổ cuối bài Tràng giang càng thấy rõ hơn bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Đồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn một “nỗi sầu nhân thế”. Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Tràng Giang Huy Cận 🌟 Những Bài Hay Nhất Phân Tích 4 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang – Mẫu 13 Đón đọc dưới đây bài phân tích 4 khổ thơ đầu bài Tràng giang sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu hay để tham khảo và học tốt tác phẩm. Huy Cận là một trong những cây bút tiêu biểu của phong trào thơ mới trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Hồn thơ Huy Cận luôn chất chứa một nỗi buồn nhân thế, một nỗi sầu vạn kỉ, nỗi buồn tủi về thân phận bơ vơ, nhỏ bé trước cuộc đời đầy bất trắc. Rồi từ đó Huy Cận thường tìm đến những không gian dài rộng choáng ngợp để làm nổi bật cảm giác cô đơn, rờn rợn của con người mà “Tràng giang” là một không gian lý tưởng để nhà thơ bộc bạch tâm sự của mình. Bài thơ chính là hình ảnh một con sông đẹp mà buồn, cổ điển mà hiện đại, được khúc xạ qua nỗi lòng Huy Cận. Một thi nhân mất nước đang sống bơ vơ giữa cuộc đời chưa tìm thấy hướng đi cho mình trong cảnh đời nô lệ. Huy Cận là một tác giả xuất sắc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, với một giọng thơ rất riêng ông đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới năm 1930 đến 1945. Ông vốn quê quán ở Hương Sơn Hà Tĩnh, trước cách mạng tháng tám thơ Ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật. Với các tác phẩm tiêu biểu như “Lửa Thiêng”, “vũ trụ ca”, “kinh cầu tự”. Nhưng sau cách mạng tháng 8 tâm hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được xây dựng từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động “trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “bài thơ cuộc đời”… vẻ đẹp thiên nhiên nỗi sầu nhân thế một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng Giang. Đây là một trong những bài thơ hay tiêu biểu và nổi tiếng của nhà thơ được viết vào mùa thu năm 1939 in trong tập Lửa Thiêng. Bài thơ được gợi cảm hứng khi Huy Cận đứng ở bờ Nam Bến chèm, Sông Hồng. Nhìn cảnh mênh mông sông nước lòng với vợ buồn cám cảnh cho kiếp người nhỏ nhoi, trôi nổi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn, hoài nghi thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại được nét hiện đại đã in dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ mới. Ngay từ đầu khi mới đọc nhan đề “Tràng Giang” ta đã bắt gặp một chất thơ cổ điển mà trang trọng. “Tràng Giang” cũng chính là “Trường Giang”, có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết “Trường Giang” mà lại viết “Tràng Giang”, tạo nên phép điệp âm, một tâm mở và nhờ vậy gợi lên hình ảnh một con sông rộng, mà còn dài thăm thẳm. “Tràng Giang” lại là một từ Hán Việt cổ điển nên cũng kín đáo, gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời. Dòng tràng giang vì vậy không chỉ có chiều dài rộng địa lý, mà còn có chiều sâu của thời gian của lịch sử. Đó là con sông như đã chảy từ ngàn xưa đã trầm tích vào trong mình chiều sâu của hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và dường như đã trải qua bao áng cổ thi bất hủ muôn đời. “Duy chiến trường giang thiên tế lựu”Lý Bạch. Tiếp nối sự cổ kính trang trọng ở nhan đề, chất cổ điển càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Câu thơ đề từ qua đã ôm trọn chủ đề của bài thơ, các hình ảnh trời rộng sông dài gợi những phạm vi không gian khác nhau từ thấp đến cao, từ xa đến gần một không gian lớn lao mênh mông có tầm vũ trụ. Hình tượng này còn trở đi trở lại nhiều lần trong bài thơ. “Sông dài trời rộng bên cô liêu”. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ, chứa đựng đầy khắp không gian cảnh nào cũng gợi buồn nên bâng khuâng là cảm giác xao xuyến, trống trải của con người khi đối diện trước không gian mênh mông, rộng lớn, thì “nhớ” lại là niềm hoài niệm của con người để điều gì đó đã khuất xa trong thời gian, không gian. Cả dòng thơ đã bộc bạch trực tiếp nỗi niềm, tâm trạng con người bộc lộ nỗi khắc khoải của hồn thơ Huy Cận. “Huy Cận dường như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” Xuân Diệu. Chất cổ điển được nhà thơ thể hiện xuyên suốt bài thơ thông qua việc sử dụng các thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ, như “con thuyền”, “dòng sông”, “Cánh bèo”, “mặt nước”. Kết hợp với những hình ảnh tượng trưng thường gặp trong thơ cổ, “Tràng Giang, bến cô liêu, mây cao, núi bạc, khói hoàng hôn”. Ẩn sau những hình ảnh rất đỗi bình dị ấy ta bắt gặp nỗi buồn thấp thoáng của một con người đang chìm vào hư không, mong mỏi một sự giải thoát cho tâm hồn. Cảnh sông nước mênh mông, đẹp mà buồn, khung cảnh thiên nhiên ấy gợi lên niềm khao khát của một con người không tìm thấy tâm hồn đồng điệu trong cuộc đời, trong một thế giới mà nỗi buồn thân phận cô đơn đã trở thành nỗi sầu vạn kỉ của kiếp người. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang,Không cầu gọi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Đoạn thơ miêu tả hình ảnh dòng sông vắng lặng như tờ không một con thuyền, không cầu qua lại, chỉ có những cánh bèo nối hàng mà trôi vô hướng. Đây cũng là một hình ảnh mà ta thường bắt gặp trong thơ ca cổ điển, hình ảnh những cánh bèo trôi vô định, không phương hướng gợi ra sự trôi nổi, lênh đênh, thân phận bèo bọt của một kiếp người. Dòng sông mênh mông thì không một chuyến đò ngang, không một nhịp cầu nối bờ, gợi ra đôi bờ của dòng sông như hai thế giới hoàn toàn xa lạ cách biệt cứ song song, “lặng lẽ tiếp bãi vàng”, không một chút niềm thân mật, không giao cảm giao hòa. Dòng sông “Tràng Giang” ở dưới buồn và đẹp bao nhiêu thì ở trên lại có bầu trời sâu chót vót, mang một nét đẹp rất cổ điển. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiếu sa”. Hai câu thơ đã gợi cho ta nhớ đến câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Đỗ Phủ Trung Quốc. “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Trên cái nền mênh mông của không gian, mây trôi thành cồn “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, rồi lên một cánh chim. “Chim nghiêng cánh nhờ bóng chiếu xa”. Một con chim đã nhỏ lại nghiêng cánh Trăng làm cho nó nhỏ nhoi đến tội nghiệp. Đúng là cánh chim của thơ mới lãng mạn, vì cánh chim ấy không chỉ gợi ra sự nhỏ bé mà còn cô liu, lặng lẽ, cánh chim ấy sà xuống phía cuối chân trời như một tia nắng nhỏ buổi chiều rớt xuống. Đặc biệt là cánh chim ấy ta đã bắt gặp trong cổ thi khá nhiều. “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan. “Chim mới về rừng tìm chốn ngủ”.Chiều Tối của Hồ Chí Minh. Mặc dù là một bài thơ mới lãng mạn nhưng “Tràng Giang” lại hội tụ những nét nghệ thuật độc đáo mang đậm dấu ấn đường thi. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn trường thiên, đậm chất cổ điển làm cho nỗi buồn như chủ đạo cả bài thơ dường như cũng được kéo dài ra vô tận. Cách tổ chức tạo ra hình ảnh song song “Thuyền về nước lại, nắng xuống trời lên, Sông dài trời rộng bờ sang bãi vàng”. Những hình ảnh này kết hợp với nhịp điệu thơ truyền thống 3/4 gợi ra một âm hưởng trôi chảy, xuôi chiều. Một âm điệu thơ mênh mang, xao xuyến giữa hồn thơ và núi sông đất nước. Hai sắc thái cổ điển còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối đường thi tạo ra vẻ cân xứng, trang trọng, mở ra các chiều của không gian bao la, bát ngát. Đâu chỉ dừng lại ở đó ý vị cổ điển còn được nhà thơ Huy Cận khai thác triệt để qua việc dùng các từ ngữ, từ láy, hình ảnh mang đậm âm điệu cổ kính. Rải rác khắp bài thơ là hệ thống một loạt từ láy “Tràng Giang, điệp điệp, song song, điều hưu, rờn rợn, lớp lớp”…. Tất cả đã tạo nên cho tui phẩm của Huy Cận một nét đẹp cổ điển rất riêng mang phong cách của riêng nhà thơ không thể pha lẫn vào đâu được. “Tràng giang” được sáng tác trong giai đoạn 1930 đến 1945 là một bài thơ mới lãng mạn nên màu sắc thơ ca bao trùm bài thơ phần lớn là màu sắc hiện đại. Trước hết nét hiện đại trong bài thơ thể hiện ở những hình ảnh, âm thanh rất chân thực đời thường mà ta dễ bắt gặp trong cuộc sống thường nhật. Đó là các hình ảnh không ước lệ không đẹp một cách hoa mỹ, mà mang một vẻ đẹp giản dị chân quê. Hình ảnh một cành củi khô trôi chông chênh, vô định trên dòng nước cánh bèo trôi dạt nối hàng lênh đênh, ánh nắng, hoàng hôn nhạt nhòa soi rọi thưa thớt, đâu đây còn có âm thanh vụn vặt của văn chợ chiều. Tất cả làm nên một bức tranh quê hương gần gũi, quen thuộc bởi nó như một bức tranh thu nhỏ của quê hương sông nước Việt Nam. Nét hiện đại trong bài thơ “Tràng Giang” còn được thể hiện ở một cái tôi mạnh dạn, táo bạo, giám trực tiếp bộc lộ nỗi buồn của riêng mình, mà đó cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên yêu nước thời bấy giờ chưa tìm thấy lối đi đúng đắn. Nỗi buồn man mác, bâng khuâng của cái tôi trữ tình ấy ẩn chứa sâu mỗi câu chữ của cả bài thơ. Mở đầu bài thơ ta đã bắt gặp một nỗi buồn khó tả quang cảnh sông nước mênh mông, tất bật, bất tận. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi nước máy song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Ngay câu đầu bài thơ không chờ nói sông mà nói buồn nói về một nỗi buồn bất tận bằng một hình ảnh ẩn dụ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”, như một nỗi buồn trùng trùng, điệp điệp khó dứt con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh cô đơn vô định. Ở đây con thuyền xuôi mái theo dòng nước, hai vật vốn gắn bó xuôi chiều theo nhau ấy vậy mà ở đây thuyền và nước chỉ song song với nhau chứ không thân thiết. Bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào thuyền đi với dòng để rồi chia ly với dòng. Câu thơ thứ ba đã nói tới sự chia lìa tan tác “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, thuyền buồn vì phải sẽ dòng, nước buồn vì không biết đi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi lạc lõng vô định “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cả khổ thơ đầu đã vẽ nên một không gian sông nước bao la rời rạc hờ hững qua các đường nét con thuyền gánh củi gợn sóng. Theo đó là nỗi “buồn điểm Điệp”, “sâu trăm ngả”, không chỉ làm cho thuyền buồn cành củi buồn vợ xuống dòng sông buồn mà cả cái tôi trữ tình càng thêm được buồn khôn nguôi. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch cảm xúc của đoạn dạo đầu. “Lơ thơ còn nhỏ gió đìu hiuĐầu Tiếng Làng xã Vạn chợ chiều,Nắng xuống trồi lên sau chót vótSông dài trời rộng bên cô liêu”. Một cái còn nhỏ nơi thơ vắng vẻ lại thêm ngọn gió đìu hiu càng vắng vẻ buồn hơn như bị cuộc sống bỏ quên. Đến đây đã xuất hiện tín hiệu sống của con người, nhưng đó chỉ là âm thanh vật vẫn mông lung của một chợ chiều, làng xa đã vãn càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối cùng càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng, chơ chọi, không gian được mở ra ba chiều hết kích cỡ, “năng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng”, nhưng lại không ăn nhập với nhau. Trong hai dòng thơ này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn, bởi lẽ giữa cái không gian bao la choáng ngợp ấy nhà thơ càng thấy mình như nhỏ nhoi biết bao. Cái mênh mông và im lặng đến đáng sợ như muốn nuốt chửng con người, nên đã buồn lại càng buồn hơn. Tiếp nối sự dự nhập bởi nỗi cô đơn, do chiều cao vô cùng của bầu trời đem lại, thì những câu thơ tiếp theo sau đây nhẹ tựa như một tiếng thở dài đầy bâng khuâng và sầu muộn, của cái tôi trước tạo vật hững hờ. Nỗi sầu muộn đó sẽ còn tiếp tục gây ám ảnh, khi cái tôi trữ tình đối diện với một thiên nhiên gần như ngoảnh mặt làm ngơ với bao nỗi niềm cần sẻ chia của con người. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang,Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Giờ đây trên dòng sông chỉ có bèo duy nhất, bèo hàng nối hàng, không có đò ngang, không cầu bắc không một công trình mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh trải dài ra bờ xanh, Bãi sậy, buồn tràn ngập cái tâm hồn thi sĩ mà không sao tả xiết. Kết thúc bài thơ cũng là đỉnh điểm của nỗi buồn, nỗi buồn khó tả kết tụ thành một nỗi nhớ da diết thường trực. Đó cũng là một nét tâm trạng hiện đại, mới mẻ. “Lòng quê rờn rợn vờn con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. “Lòng quê rờn rợn” là lòng thương nhớ quê nhà bắt nguồn từ sông nước “Tràng Giang”, thiên nhiên không chỉ là nơi gửi gắm nỗi buồn mà còn là nơi gửi gắm lòng thương quê nhà. Yêu thiên nhiên cũng là lĩnh vực biểu hiện lòng yêu đất nước, câu thơ cuối vừa phủ định “không khói hoàng hôn”, vừa khẳng định “cũng nhớ nhà”. Thể hiện trong bài “Hoàng Hạc lâu” cũng kết thúc bằng hai câu. “Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khỏi sống cho buồn lòng ai”. Thơ xưa cần đến cái gợi nhớ để nhớ, nhưng Huy Cận không cần cái gợi nhớ cũng òa lên nức nở. Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ thương quê nhà luôn thường trực, gia giết trong tâm khảm nhà thơ. “Tràng Giang”, thật đúng là một thi phẩm tuyệt tác của phong trào thơ mới, cả bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển, lại hòa lẫn với phong vị hiện đại đã mang đến cho người đọc một cảm xúc rất mới mẻ và khó quên. Bài thơ đúng như lời của Huy Cận “Tràng Giang” là bài thơ tình, tình gặp cảnh một bài thơ về tâm hồn. Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 2 Tràng Giang 🌠 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích 4 Khổ Thơ Cuối Bài Tràng Giang – Mẫu 14 Dưới đây chia sẻ bài phân tích 4 khổ thơ cuối bài Tràng giang với những phân tích đầy đủ giúp các em học sinh nắm bắt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tràng Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên. 4 câu thơ trong đoạn đầu hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả,Củi một cành khô lạc mấy dòng. Câu thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của con người. Từ “ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng. Dòng sông ấy có từ “gợn” chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người, có thể nói có bao nhiêu sóng gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Điệp từ “điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng triền miên. “Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền xuôi mái nổi bật giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “Xuôi mái” ở trạng thái bị động mặc cho dòng nước trôi. Từ láy “song song” “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử dụng cặp từ ngược hướng phải chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngả. Ở câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “cành củi khô”. Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và vô giá trị, không chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm thường nhỏ bé và đơn độc cạn kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bức pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn tả.” Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn mạnh cái sự vắng vẻ nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ có một cồn nhỏ đìu hiu vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con người. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người. Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống đối với trời lên”, “sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô liêu”. Động từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên với một trạng thái cô đơn. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Khổ thơ tiếp theo gợi nên sự vô định “cánh bèo” không phải đơn thuần là cánh bèo không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ thanh niên Việt Nam không tìm thấy hướng đi. “Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người nhưng tác giả đã nói là “không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở đây chỉ có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới. Chính nỗi niềm này đã được tác giả nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người ở đây cô đơn bất an, rợn người. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Khổ thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ, tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thấy được dấu ấn cổ điển thì ở đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không chỉ chở nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới. Đến với hai câu cuối của bài thơ “lòng quê dờn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự phủ định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết hơn, cháy bỏng hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ láy “dờn dợn” như những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận. Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc. Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Tràng Giang 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất Phân tích bài thơ Tràng giangPhân tích bài Tràng giang1. Dàn ý phân tích Tràng Giang2. Phân tích Tràng giang của Huy Cận3. Phân tích Tràng giang học sinh giỏi4. Phân tích Tràng giang khổ 15. Phân tích bài thơ Tràng giang ngắn nhất6. Phân tích bài Tràng Giang chi tiết - mẫu 17. Phân tích bài thơ Tràng Giang chi tiết - mẫu 28. Phân tích Tràng giang - mẫu 39. Phân tích Tràng giang - mẫu 410. Cảm nhận bài thơ Tràng giang11. Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giangPhân tích bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận - Nhằm giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo để làm bài phân tích bài thơ Tràng Giang sao cho hay và ý nghĩa. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ tổng hợp mẫu phân tích Tràng giang khổ 1, phân tích Tràng giang 2 khổ đầu, phân tích Tràng giang 2 khổ cuối, phân tích Tràng giang ngắn gọn, phân tích tràng giang hay nhất... Sau đây là nội dung chi tiết, mời các bạn cùng theo 7 mẫu cảm nhận bài thơ Vội vàng hay nhấtTop 6 bài phân tích bài thơ Vội vàng siêu hayTràng giang là một bài thơ tuyệt phẩm của nhà thơ Huy Cận được in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Có thể nói Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Huy Cận và cũng là một bài thơ tiêu biểu trong phong trào thơ Mới. Bài thơ là một bức tranh thiên đìu hiu gợi cho người đọc cảm nhận được một nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn của nhà thơ. Sau đây là tổng hợp các mẫu bài phân tích Tràng giang, phân tích bài thơ Tràng giang, phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang siêu hay. Mời các bạn cùng tham Dàn ý phân tích Tràng GiangI. Mở bài- Giới thiệu những nét chính về tác giả Huy Cận đặc điểm tiểu sử, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...- Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tràng giang” hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát những nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...II. Thân bài* Nhan đề và câu thơ đề từ- Nhan đề+ Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài.+ Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên hình ảnh một con sông vừa dài vừa Câu thơ đề từ Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ* Khổ 1- Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.→ Từ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao Hình ảnh con thuyền xuôi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoi→ Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le Hai câu cuối+ Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy,+ Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu→ Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.* Khổ 2- Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh+ Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo+ Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người- Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người* Khổ 3- Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về Nghệ thuật phủ định được lặp lại “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”.→ Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau* Khổ 4- Hai câu thơ đầu khổ thơ Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ.+ Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả+ Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết.+ Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơIII. Kết bàiKhái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản Phân tích Tràng giang của Huy CậnHuy Cận tên đầy đủ là Cù Huy Cận. Ông tác một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Tuy nhiên sau khi đến với cách mạng, ông đã thực sự tìm ra mục đích và lý tưởng nghệ thuật của mình. Tràng giang là tác phẩm nằm trong tập thơ Lửa thiêng nổi tiếng của tác giả, bài thơ mang một nỗi buồn da diết cùng hình ảnh thiên nhiên bao la, hiu quạnh. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.”Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.“Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.”Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa, vãn chợ chiềuCặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng“Nắng xuống trời lên, sâu chót vótSông dài trời rộng, bến cô liêu”Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian, thấm sâu trong từng hơi mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối“Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cần gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào“Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết“Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu”.Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,..Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc Phân tích Tràng giang học sinh giỏiHuy Cận là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới 1932-1945. Nếu như Xuân Diệu thể hiện sự tươi trẻ, rất mới trong sáng tạo thì Huy Cận lại là sự trầm lắng, sâu sắc, gửi gắm nhiều nỗi niềm bâng khuâng, vui buồn của một hồn thơ đa cảm. Năm 20 tuổi, Huy Cận giới thiệu tới độc giả tập thơ đầu tay với nhan đề “Lửa thiêng" và một trong số các bài thơ tiêu biểu nhất trong tập thơ này chính là Tràng từ đầu khi mới đọc nhan đề “Tràng Giang” ta đã bắt gặp một chất thơ cổ điển mà trang trọng. “Tràng Giang” cũng chính là “Trường Giang”, có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết “Trường Giang” mà lại viết “Tràng Giang”, tạo nên phép điệp âm, một tâm mở và nhờ vậy gợi lên hình ảnh một con sông rộng, mà còn dài thăm thẳm. “Tràng Giang” lại là một từ Hán Việt cổ điển nên cũng kín đáo, gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời. Dòng tràng giang vì vậy không chỉ có chiều dài rộng địa lý, mà còn có chiều sâu của thời gian của lịch sử. Đó là con sông như đã chảy từ ngàn xưa đã trầm tích vào trong mình chiều sâu của hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và dường như đã trải qua bao áng cổ thi bất hủ muôn đời.“ Duy chiến trường giang thiên tế lựu”Lý Bạch.Tiếp nối sự cổ kính trang trọng ở nhan đề, chất cổ điển càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm.“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.Câu thơ đề từ qua đã ôm trọn chủ đề của bài thơ, các hình ảnh trời rộng sông dài gợi những phạm vi không gian khác nhau từ thấp đến cao, từ xa đến gần một không gian lớn lao mênh mông có tầm vũ trụ. Hình tượng này còn trở đi trở lại nhiều lần trong bài thơ.“Sông Dài trời rộng bên cô liêu”.Nỗi bâng khuâng buồn nhớ, chứa đựng đầy khắp không gian cảnh nào cũng gợi buồn nên bâng khuâng là cảm giác xao xuyến, trống trải của con người khi đối diện trước không gian mênh mông, rộng lớn, thì “nhớ” lại là niềm hoài niệm của con người để điều gì đó đã khuất xa trong thời gian, không gian. Cả dòng thơ đã bộc bạch trực tiếp nỗi niềm, tâm trạng con người bộc lộ nỗi khắc khoải của hồn thơ Huy Cận. “Huy Cận dường như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” Xuân Diệu.Chất cổ điển được nhà thơ thể hiện xuyên suốt bài thơ thông qua việc sử dụng các thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ, như “con thuyền”, “dòng sông”, “Cánh bèo”, “mặt nước”. Kết hợp với những hình ảnh tượng trưng thường gặp trong thơ cổ, “Tràng Giang, bến cô liêu, mây cao, núi bạc, khói hoàng hôn”. Ẩn sau những hình ảnh rất đỗi bình dị ấy ta bắt gặp nỗi buồn thấp thoáng của một con người đang chìm vào hư không, mong mỏi một sự giải thoát cho tâm sông nước mênh mông, đẹp mà buồn, khung cảnh thiên nhiên ấy gợi lên niềm khao khát của một con người không tìm thấy tâm hồn đồng điệu trong cuộc đời, trong một thế giới mà nỗi buồn thân phận cô đơn đã trở thành nỗi sầu vạn kỉ của kiếp người.“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang,Không cầu gọi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Đoạn thơ miêu tả hình ảnh dòng sông vắng lặng như tờ không một con thuyền, không cầu qua lại, chỉ có những cánh bèo nối hàng mà trôi vô hướng. Đây cũng là một hình ảnh mà ta thường bắt gặp trong thơ ca cổ điển, hình ảnh những cánh bèo trôi vô định, không phương hướng gợi ra sự trôi nổi, lênh đênh, thân phận bèo bọt của một kiếp người. Dòng sông mênh mông thì không một chuyến đò ngang, không một nhịp cầu nối bờ, gợi ra đôi bờ của dòng sông như hai thế giới hoàn toàn xa lạ cách biệt cứ song song, “lặng lẽ tiếp bãi vàng”, không một chút niềm thân mật, không giao cảm giao sông “Tràng Giang” ở dưới buồn và đẹp bao nhiêu thì ở trên lại có bầu trời sâu chót vót, mang một nét đẹp rất cổ điển.“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiếu sa”.Hai câu thơ đã gợi cho ta nhớ đến câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Đỗ Phủ Trung Quốc.“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.Trên cái nền mênh mông của không gian, mây trôi thành cồn “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, rồi lên một cánh chim. “Chim nghiêng cánh nhờ bóng chiếu xa”.Một con chim đã nhỏ lại nghiêng cánh Trăng làm cho nó nhỏ nhoi đến tội nghiệp. Đúng là cánh chim của thơ mới lãng mạn, vì cánh chim ấy không chỉ gợi ra sự nhỏ bé mà còn cô liu, lặng lẽ, cánh chim ấy sà xuống phía cuối chân trời như một tia nắng nhỏ buổi chiều rớt xuống. Đặc biệt là cánh chim ấy ta đã bắt gặp trong cổ thi khá nhiều.“ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan.“Chim mới về rừng tìm chốn ngủ”.Chiều Tối của Hồ Chí Minh.Mặc dù là một bài thơ mới lãng mạn nhưng “Tràng Giang” lại hội tụ những nét nghệ thuật độc đáo mang đậm dấu ấn đường thi. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn trường thiên, đậm chất cổ điển làm cho nỗi buồn như chủ đạo cả bài thơ dường như cũng được kéo dài ra vô tận. Cách tổ chức tạo ra hình ảnh song song “Thuyền về nước lại, nắng xuống trời lên, Sông dài trời rộng bờ sang bãi vàng”. Những hình ảnh này kết hợp với nhịp điệu thơ truyền thống 3/4 gợi ra một âm hưởng trôi chảy, xuôi chiều. Một âm điệu thơ mênh mang, xao xuyến giữa hồn thơ và núi sông đất nước. Hai sắc thái cổ điển còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối đường thi tạo ra vẻ cân xứng, trang trọng, mở ra các chiều của không gian bao la, bát ngát. Đâu chỉ dừng lại ở đó ý vị cổ điển còn được nhà thơ Huy Cận khai thác triệt để qua việc dùng các từ ngữ, từ láy, hình ảnh mang đậm âm điệu cổ kính. Rải rác khắp bài thơ là hệ thống một loạt từ láy “Tràng Giang, điệp điệp, song song, điều hưu, rờn rợn, lớp lớp”…. Tất cả đã tạo nên cho tui phẩm của Huy Cận một nét đẹp cổ điển rất riêng mang phong cách của riêng nhà thơ không thể pha lẫn vào đâu được.“Tràng giang” được sáng tác trong giai đoạn 1930 đến 1945 là một bài thơ mới lãng mạn nên màu sắc thơ ca bao trùm bài thơ phần lớn là màu sắc hiện hết nét hiện đại trong bài thơ thể hiện ở những hình ảnh, âm thanh rất chân thực đời thường mà ta dễ bắt gặp trong cuộc sống thường nhật. Đó là các hình ảnh không ước lệ không đẹp một cách hoa mỹ, mà mang một vẻ đẹp giản dị chân quê. Hình ảnh một cành củi khô trôi chông chênh, vô định trên dòng nước cánh bèo trôi dạt nối hàng lênh đênh, ánh nắng, hoàng hôn nhạt nhòa soi rọi thưa thớt, đâu đây còn có âm thanh vụn vặt của văn chợ chiều. Tất cả làm nên một bức tranh quê hương gần gũi, quen thuộc bởi nó như một bức tranh thu nhỏ của quê hương sông nước Việt hiện đại trong bài thơ “Tràng Giang” còn được thể hiện ở một cái tôi mạnh dạn, táo bạo, giám trực tiếp bộc lộ nỗi buồn của riêng mình, mà đó cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên yêu nước thời bấy giờ chưa tìm thấy lối đi đúng đắn. Nỗi buồn man mác, bâng khuâng của cái tôi trữ tình ấy ẩn chứa sâu mỗi câu chữ của cả bài đầu bài thơ ta đã bắt gặp một nỗi buồn khó tả quang cảnh sông nước mênh mông, tất bật, bất tận.“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi nước máy song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng”Ngay câu đầu bài thơ không chờ nói sông mà nói buồn nói về một nỗi buồn bất tận bằng một hình ảnh ẩn dụ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”, như một nỗi buồn trùng trùng, điệp điệp khó dứt con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh cô đơn vô định. Ở đây con thuyền xuôi mái theo dòng nước, hai vật vốn gắn bó xuôi chiều theo nhau ấy vậy mà ở đây thuyền và nước chỉ song song với nhau chứ không thân thiết. Bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào thuyền đi với dòng để rồi chia ly với dòng. Câu thơ thứ ba đã nói tới sự chia lìa tan tác “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, thuyền buồn vì phải sẽ dòng, nước buồn vì không biết đi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi lạc lõng vô định “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Ca khổ thơ đầu đã vẽ nên một không gian sông nước bao la rời rạc hờ hững qua các đường nét con thuyền gánh củi gợn sóng. Theo đó là nỗi “buồn điểm Điệp”, “sâu trăm ngả”, không chỉ làm cho thuyền buồn cành củi buồn vợ xuống dòng sông buồn mà cả cái tôi trữ tình càng thêm được buồn khôn thơ thứ hai tiếp tục mạch cảm xúc của đoạn dạo đầu.“Lơ thơ còn nhỏ gió đìu hiuĐầu Tiếng Làng xã Vạn chợ chiều,Nắng xuống trồi lên sau chót vótSông dài trời rộng bên cô liêu”.Một cái còn nhỏ nơi thơ vắng vẻ lại thêm ngọn gió đìu hiu càng vắng vẻ buồn hơn như bị cuộc sống bỏ quên. Đến đây đã xuất hiện tín hiệu sống của con người, nhưng đó chỉ là âm thanh vật vẫn mông lung của một chợ chiều, làng xa đã vãn càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối cùng càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng, chơ chọi, không gian được mở ra ba chiều hết kích cỡ, “năng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng”, nhưng lại không ăn nhập với nhau. Trong hai dòng thơ này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn, bởi lẽ giữa cái không gian bao la choáng ngợp ấy nhà thơ càng thấy mình như nhỏ nhoi biết bao. Cái mênh mông và im lặng đến đáng sợ như muốn nuốt chửng con người, nên đã buồn lại càng buồn nối sự dự nhập bởi nỗi cô đơn, do chiều cao vô cùng của bầu trời đem lại, thì những câu thơ tiếp theo sau đây nhẹ tựa như một tiếng thở dài đầy bâng khuâng và sầu muộn, của cái tôi trước tạo vật hững hờ. Nỗi sầu muộn đó sẽ còn tiếp tục gây ám ảnh, khi cái tôi trữ tình đối diện với một thiên nhiên gần như ngoảnh mặt làm ngơ với bao nỗi niềm cần sẻ chia của con người.“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang,Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Giờ đây trên dòng sông chỉ có bèo duy nhất, bèo hàng nối hàng, không có đò ngang, không cầu bắc không một công trình mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh trải dài ra bờ xanh, Bãi sậy, buồn tràn ngập cái tâm hồn thi sĩ mà không sao tả thúc bài thơ cũng là đỉnh điểm của nỗi buồn, nỗi buồn khó tả kết tụ thành một nỗi nhớ da diết thường trực. Đó cũng là một nét tâm trạng hiện đại, mới mẻ.“Lòng quê rờn rợn vờn con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.“Lòng quê rờn rợn” là lòng thương nhớ quê nhà bắt nguồn từ sông nước “Tràng Giang”, thiên nhiên không chỉ là nơi gửi gắm nỗi buồn mà còn là nơi gửi gắm lòng thương quê nhà. Yêu thiên nhiên cũng là lĩnh vực biểu hiện lòng yêu đất nước, câu thơ cuối vừa phủ định “không khói hoàng hôn”, vừa khẳng định “cũng nhớ nhà”. Thể hiện trong bài “Hoàng Hạc lâu” cũng kết thúc bằng hai câu.“Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khỏi sống cho buồn lòng ai”.Thơ xưa cần đến cái gợi nhớ để nhớ, nhưng Huy Cận không cần cái gợi nhớ cũng òa lên nức nở. Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ thương quê nhà luôn thường trực, gia giết trong tâm khảm nhà thơ.“Tràng Giang”, thật đúng là một thi phẩm tuyệt tác của phong trào thơ mới, cả bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển, lại hòa lẫn với phong vị hiện đại đã mang đến cho người đọc một cảm xúc rất mới mẻ và khó quên. Bài thơ đúng như lời của Huy Cận “Tràng Giang” là bài thơ tình, tình gặp cảnh một bài thơ về tâm hồn./.4. Phân tích Tràng giang khổ 1Huy Cận được mọi người biết đến là nhà thơ của phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông hầu như ca ngợi về vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa nỗi sầu của thế gian. Trong tất cả các tác phẩm, Tràng Giang được đánh giá cao về nội dung lẫn nghệ thơ được ông sáng tác vào năm 1939 khi đứng ở bờ Nam Bến Chèm và ngắm sông Hồng. Có thể nói, chính cảnh vật nơi đây đã khơi gợi nguồn cảm hứng bất tận trong 1 tuy chỉ có vài câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện rõ được bức tranh sông nước mênh mông cùng với tâm tình của người thi gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songBài thơ mở đầu bằng những câu thơ đậm chất cổ thi. Cảnh vật thiên nhiên được khắc họa qua tâm hồn của người thi sĩ trở nên mới lạ và độc đáo hơn. Bức tranh thủy mặc hiện lên vô cùng đẹp với hình ảnh sóng gợn và thuyền xuôi. Con sóng chỉ gợn nhẹ nhưng cứ “điệp điệp” mãi không thôi. Nhờ sóng mà con thuyền cứ mãi xuôi theo dòng nước. Trong 2 câu thơ này, tác giả còn sử dụng từ láy để làm gia tăng nhịp điệu cho lời thơ. Cách dùng từ của nhà thơ khá độc đáo mang đến điểm mới trong văn tranh sông nước hiện lên vô cùng đẹp qua lời thơ của tác giả. Thế nhưng, tâm hồn con người lại ẩn chứa nỗi buồn sâu lắng. Do sự tác động ấy mà khi đọc hai câu thơ đầu, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn man mác được thể hiện qua từ ngữ. Sông nước mênh mông là thế nhưng con người mãi chỉ là sinh vật nhỏ bé chẳng giữa đất về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòngHình ảnh thuyền và nước sau khi được song song với nhau thì lại bị tách ra. Đây chính là sự xa cách giữa muôn trùng khơi. Hình ảnh ấy đã được nhân hóa khiến để gia tăng cảm xúc. Cụm từ “sầu trăm ngả” đã mang đến cho người đọc cảm giác buồn vô tận. Nỗi buồn ấy dường như đã lan tỏa ra khắp không gian. Đọc câu thơ, chúng ta sẽ hình dung được cảnh con thuyền lênh đênh vô tận giữa dòng nước bao la. Hình ảnh thuyền và sông đối lập nhau đã làm rõ rệt hơn nỗi buồn da diết của người thi dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” điểm xuyết vào khung cảnh sông nước ấy. Chính yếu tố này đã khiến cho sự lẻ loi của con người giữa trời đất rộng lớn. Cành củi còn bị “khô” thể hiện sự thiếu sức sống của con người. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng phép đảo ngữ cho cụm từ “củi một cành khô” cùng với nhịp thơ 1/3/3 để nhấn mạnh thân phận con người bị vùi dập. Đứng trước khung cảnh ấy, người thi sĩ cảm thấy nỗi buồn man mác. Ông buồn cho thân phận của con người, nghĩ về dòng đời lênh đênh, trôi nổi. Kiếp người vốn có nhiều sự thay đổi nhưng chẳng ai biết trước được điều gì. Con người luôn cô độc, lẻ loi và chơi vơi giữa dòng đời mà chẳng biết đi về buồn của thi sĩ khi đứng trước dòng đời bao laQua khổ thơ 1 bài Tràng Giang, chúng ta đã phần nào thấy rõ được sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhà thơ giữa bút pháp hiện đại và cổ điển. Nhờ đó mà lời thơ gần gũi nhưng vẫn tác động mạnh mẽ vào lòng người đọc. Thêm vào đó là cách đặt nhan đề độc đáo theo kiểu tả cảnh ngụ vào đó, sự xuất hiện của những từ láy trong khổ 1 còn mang lại nhiều giá trị biểu cảm. Thông qua đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sự heo hút và mênh mông của dòng sông Hồng và sự nhỏ bé của con người trong khung cảnh ra, Huy Cận còn thành công trong việc sử dụng hình ảnh độc đáo. Có thể bạn chẳng thể bắt gặp được hình ảnh “củi một cành khô” trong thơ văn Việt Nam. Chính sự mới mẻ này đã tạo nên điểm nhấn ấn tượng nâng cao giá trị của tác tích khổ 1 bài Tràng Giang, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn xuyên suốt cả đoạn. Tất cả các hình ảnh được nhắc đến mặc dù gần gũi nhưng lại hiện lên rất buồn và không có sức sống dưới ngòi bút của Huy cận. Bởi vì, tâm hồn đang ẩn chứa nỗi buồn nên thơ văn và cảnh vật hiện lên trông rất ảm Phân tích bài thơ Tràng giang ngắn nhấtHuy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới 1930 - 1945 với những tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung Quốc. Nhưng chính "tràng giang" này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát lên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳmSóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòngVới một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, "lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô định. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh lòng hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bộiLơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêuHai câu thơ đầu phảng phất một khung cảnh buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô định. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiên không như lòng người mong ngóngBèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thương nhớLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàngSang khổ thơ thứ ba dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu, cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệuLớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhàCó thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu, thêm buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" là sóng của sông hay là sóng trong lòng thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Từ những lời văn phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận, chúng ta có thể thấy được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Phân tích bài Tràng Giang chi tiết - mẫu 1Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" thời kì khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng tích bài thơ Tràng giang ngay trong khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng."Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu như câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu thứ nhất "sóng gợn" là những vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. "Sầu trăm ngả", nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ "khô" - hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. "Lạc mấy dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi "lạc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy "củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này. Có thể nói, hình ảnh "củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên bức tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống."Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu."Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, "đìu hiu" - vắng lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương, thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua biện pháp đối "nắng xuống" - "trời lên" đã làm không gian mở rộng về chiều cao, có một khoảng không gian đang giãn nở ra ở động từ ngược hướng "lên" và "xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót" - không gian mở rộng cả về chiều sâu. "Chót vót" vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Còn đã nói tới sâu thì người ta hay dùng "sâu hun hút" hoặc "sâu thăm thẳm",... Chính cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về nỗi cô đơn, vắng vẻ. "Bến cô liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ."Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt", nhưng sự vật đi kèm với động từ này là "bèo". "Bèo" vốn là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng" càng diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau. Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp lại sự mong chờ ấy là "không một chuyến đò ngang".Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định "không đò" và giờ tiếp đến là "không cầu". Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi niềm "thân mật". Nhưng vì hình ảnh này không có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ"Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. "Lớp lớp" - chồng chất lên nhau, "đùn" là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như vậy, với câu thơ đầu khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh rộng lớn nhiều lớp mây đè lên núi bạc. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. "Nghiêng" - không vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở sau "bóng chiều sa".Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu, còn đang mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã từng bắt gặp trong "Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ" Mộ - Hồ Chí Minh, tạm dịch "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ". Đến với câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi lòng nhớ quê của mình. "Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi khi nhìn thấy "con nước" là lòng yêu quê hương của tác giả lại dâng lên. Tuy nhiên, nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng"Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu."Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai?Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu do nhìn thấy khói sóng trên dòng sông nên buồn và nhớ về quê nhà, còn ở Huy Cận không nhìn thấy khói nhưng nỗi nhớ nhà vẫn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà là do đang xa xứ, đang ở xứ người còn nỗi nhớ của Huy Cận xuất phát từ một người đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển thơ Đường thi và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,... cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng khi phân tích bài thơ Tràng giang, chúng ta thấy Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của Phân tích bài thơ Tràng Giang chi tiết - mẫu 2Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ… Và chỉ khi đến với “Tràng giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị ường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có lần từng nhận xét “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”. Và “Tràng giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó.“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”.“Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông vào thế giới của Tràng giang, ta như lạc vào một miền sông dài trời rộng đầy cuốn hútSóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về, nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy thơ đầu mở ra với sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ “gợn” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến những chuyển động vô cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng thực chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng đượm không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ, thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy "điệp điệp” không chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sông nước mà còn là dòng sông tâm trạng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có dụng ý. “Tràng giang” là con sông vừa dài vừa rộng, gợi ra không gian rộng lớn, choáng ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng, nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân này càng tô đậm thêm nỗi lòng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi không còn thấy những dấu chân trên như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp thoáng bóng dáng của con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng chính là con thuyền trôi vô định, trôi song song dòng nước, cho con sóng đưa đi. Hình ảnh đó gợi cho tôi một tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, sự đời đưa đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước đẩy, thuyền trôi. Thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sau, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà không gì có thể bù đắp bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi thu mênh mông” Bích Khê, có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” Xuân Diệu, lại có cái buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô lạc mấy dòng” là điều không thể tránh thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầuLơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ” được đặt lên đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện liên tiếp ba tính từ chỉ sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính là cái buồn không ai chia sẻ đang dậy sóng trong tác vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khổ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm giác đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” Thạch Lam. Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị Đường thi của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ cùng các động từ, tính từ đối nhau từng cặp lên – xuống, dài – rộng như mở thêm cho không gian. Sông nước đã rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian như đang giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển động ra xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức tranh ấy, ta thấy tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ trụ. Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh dạt về đâu, hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng giang được nhân lên mấy lần phủ định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi lên không khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ quê hương “Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta - Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo - Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo - Nhịp cầu nối những bờ vui” Nhịp cầu nối những bờ vui. Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang bờ sông cứ thế chạy dài về phía chân trời như hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh "tràng giang" nay chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận “cánh bèo mặt nước” Nguyễn Du, sự tan tác, chia lìa, phiêu bạtPhận bèo bao quản nước saLênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênhNguyễn DuCâu thơ cho ta thấy Bèo dạt hoa trôi trên dòng tràng giang hay cũng chính là kiếp trôi nổi của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng, kéo nhau như sóng gợn trong lòng Huy nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơnLớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trôi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gianLòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.“Lòng quê” hay cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng thi nhân, sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? Hai từ “dờn dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lượn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiều lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư tưởng, tình cảm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà?Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hoài hương của mình thế này “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Hoàng Hạc Lâu. Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Còn ở phần phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận, ta lại thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ. Đủ để thấy cái tình quê ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm trầm nhưng sâu sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp?Dưới hình thức một bài thơ đậm phong vị Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê bình Phan Cự Đệ có lần từng nhận xét “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi…Tiếng nói trong Thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương “Quê hương” của Tế Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…. Cho nên ta có thể dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài thơ như thế. Cùng với tấm lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi với chúng ta cho đến tận muôn Phân tích Tràng giang - mẫu 3Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” Hoài Thanh. Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” 1940 rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển tải nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” có cùng nghĩa để thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ quả thực trước một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã không giấu nổi nỗi buồn mà cứ để nó lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy thơ đầu đã mở ra một khung cảnh tràng giang mênh mông, rộng lớn đối lập hoàn toàn với những thứ nhỏ bé như sóng, con thuyền, cành củi khô. Những sự vật ấy đồng thời cũng gợi nên nỗi buồn mênh mang theo sóng nước. Qua các từ gợn, buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nỗi buồn càng trải dài, lan tỏa khắp cả mặt sông dài rộng. Ở đây tuy có sự vật nhưng mọi thứ lại chẳng hề gắn kết, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không tách rời vậy mà thuyền về, nước lại khiến nỗi sầu, nỗi buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhấn rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh củi một cành khô. Sự vật vốn đã chẳng còn sức sống, lại nổi trôi vô định trên dòng sông đã vẽ một nét hiện đại để khắc họa nỗi buồn. Mà hơn nữa nó còn lạc mấy dòng thì không chỉ là nỗi buồn, nó hiện hữu cả nỗi cô đơn. Đó phải chăng là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất định giữa dòng đời của chính tác giả?Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xe vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêuNhưng dường như không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ thơ, đìu hiu lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó hay là đâu có có âm thanh của sự sống? Dẫu có có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tô đậm thêm sự tĩnh lặng. Bởi vậy xung quanh chỉ còn là nắng trên trời, sông trước mặt, thứ xuống thứ lên, thứ dài, thứ rộng mà dường như vốn đã xa nay lại càng xa hơn. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với sông vừa có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết mức ở toàn vũ trụ. Chỉ còn lại trơ trọi bến cô liêu thì chúng ta mới biết nỗi buồn đã rộng khắp mọi không gian và nỗi cô đơn càng ngày càng lớn. Lúc này thi nhân không còn đối diện với dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ như ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu đây một chút sự sống của con dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàngLần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa nó chính là hiện thân cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, chứ không phải hàng nối hàng bèo như ở đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như thế, nối tiếp nhau trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng không phải của một cành củi khô nữa mà là của cả một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu? Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói ghém được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con người lúc bây giờ. Bởi vậy nhìn xung quanh đâu cũng thấy mênh mông, đâu cũng không thấy có dấu hiệu của sự sống nào hết. Điệp từ phủ định càng làm cho con người chẳng có chút bóng dáng nào hiện hữu nơi đây. Không một chuyến đò, không một cây cầu thì nỗi niềm thân mật dù một chút thôi cũng thực khó. Thế là chỉ còn lại thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Hai từ lặng lẽ có chút ngậm ngùi vì nhìn hết cảnh trí dòng sông từ trên cao xuống thấp, xa đến gần mà rồi cũng chỉ còn lại những bờ xanh, bãi vàng nối tiếp nhau. Không gian vì thế lại tiếp tục thêm phần mênh mông bát ngát. Nỗi cô đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu hẹp lại theo bất cứ một chiều ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen lẫn chút hiện đại đầy độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Tất cả cũng chỉ để chứa đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Bao nhiêu hi vọng dồn vào khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy màLớp lớp mây cao, đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ cảnh thiên nhiên lại có sự thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông mênh mông, vắng lặng như những khổ trên mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim, nhà thơ vẽ lên nền trời ấy những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp những áng mây ánh bạc đang đùn trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là cánh chim chao nghiêng được coi là một khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển động của hai sự vật. Chẳng biết cánh chim nhỏ ấy nghiêng nhẹ đôi cánh một cái là bóng chiều sa xuống hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh chim khiến nó ngả nghiêng? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo nên một sự dịch chuyển rất mau lẹ cả về không gian lẫn thời gian. Và thêm một lần nữa lòng người không thể nào xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có thay đổi, có tráng lệ đến đâu trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải. Nhưng lần này nỗi cô đơn đã hóa nỗi nhờ nhà. Biết bao nhiêu cảnh trí trên trời, dưới sông đều dồn về cảm xúc dợn dợn. Từ láy nguyên sáng tạo này của nhà thơ đã khắc hoặc rất chân thực một nỗi niềm bâng khuâng, da diết của “lòng quê” khi nó hô ứng với cụm từ “vời con nước”. Bao nhiêu nỗi buồn rồi cũng trào dâng lên thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay, ở ngay trên mảnh đất quê hương mà lại thấy nhớ quê hương đến như vậy. Thế mà quê hương lại chẳng còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Cảm giác xa quê hương, “thiếu quê hương” trở thành sự rung cảm sẵn có mà chẳng cần đến khói sóng hoàng hôn như thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường mới gợi nên nỗi nhớ quê nhà của thi nhân. Không cần vịn vào đâu, tự khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, da diết, tự thân nó đã bộc lộ một tình yêu thắm thiết, trĩu nặng với quê hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng Phân tích Tràng giang - mẫu 4Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tácBâng khuâng trời rộng nhớ sông dàiCâu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồnSóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòngNhững con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng không gian ra cả ba phía rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực điểm của con người trước không gian vũ mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ cóBèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cần gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn càoLòng quê dờn dợn vợi con nướcKhông khói hoàng hôn cùng nhớ thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu Cảm nhận bài thơ Tràng giangHuy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài gợn Tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngãCủi mội cành khô lạc mấy dòngĐứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng bến cô liêuLại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận tiếng làng xa vãn chợ chiềuTác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng bến cô liêuNhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàngHình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhàSau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhàTác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giangNhắc đến nhà thơ Huy Cận là nhắc đến một hồn thơ cổ điển với nỗi buồn mênh mang, sâu lắng. Bài thơ "Tràng giang" là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ viết về cảnh sông nước nhưng sau bức tranh thiên nhiên rộng lớn, u tịch ấy là một tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của người thi sĩ. Đặc biệt, trong hai khổ thơ đầu tiên, Huy Cận không chỉ mở ra khung cảnh sông nước buồn vắng mà còn hé mở bức tranh tâm trạng thầm kín của bản thân"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng"Hình ảnh "sóng'' trong câu đầu gợi ra những con sóng thực trên dòng giang trùng điệp đồng thời gợi cả những cơn sóng lòng đầy ưu tư trong lòng nhà thơ. Sóng trên dòng sông dài rộng kia cũng như lòng người vậy, mãi khắc khoải một nỗi buồn trùng điệp. Từ láy "điệp điệp" càng gợi tả nỗi buồn cứ lặp đi lặp lại của nhân vật trữ tình, từ ngày này qua tháng khác, nỗi buồn vừa rộng lại vừa dài, vừa sâu lại vừa xa. Con sông thoáng "gợn" đôi bờ mà lòng người khắc khoải, nỗi u sầu cứ giăng mắc mãi khôn nguôi. Giữa dòng trường giang rộng lớn ấy, hình ảnh "con thuyền xuôi mái" xuất hiện như một nét điểm xuyết cho bức tranh thơ. Con thuyền cứ lững lờ nhẹ trôi trong không gian mênh mông của sông nước càng làm nổi bật ấn tượng về sự đơn độc, lẻ loi, vô định. Thiên nhiên mênh mông quá, lòng sông dài rộng quá, biết tìm đâu bến đỗ cho con thuyền kia? Thuyền cứ thế thả mình xuôi theo những luồng nước song song, đi về mãi tận cuối chân trời. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với các từ ngữ vần bằng càng gợi thêm những nét mênh mang của vùng sông nước vừa như gần gũi lại vừa như xa vắng"Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng."Thuyền và nước vốn song hành, gắn bó cùng nhau, nhưng trong cảm nhận của Huy Cận, thuyền và nước lại chẳng cùng chung một điểm đến "thuyền về nước lại". Bằng biện pháp đối lập tương phản "thuyền về nước lại" đã đặc tả nỗi sầu xa cách, chia lìa. Cụm tính từ "sầu trăm ngả " làm cho nỗi buồn như lan tỏa, giăng kín cả bức tranh thơ. Là thiên nhiên đang mang 'sầu trăm ngả" hay chính lòng người đượm niềm tiếng sầu bi? Sóng nước mênh mông, thuyền không bến đậu ngỡ là tột cùng của nỗi buồn, hình ảnh cành củi khô trơ trọi đang lạc lõng giữa dòng càng làm cho lòng người thêm bâng khuâng, khắc khoải. Nghệ thuật đảo ngữ được tác giả vận dụng đầy tinh tế nhằm nhấn mạnh cái lạc lõng của vật giữa vật, của người giữa người, của cuộc đời giữa vũ trụ bao la. Số từ "một" gợi lên sự đơn lẻ, cô độc, ít ỏi, danh từ "củi" kết hợp với tính từ "khô" càng gợi sự nhỏ bé, héo khô nhựa sống. Cành củi khô trôi dạt về đâu nơi vùng sóng nước. Không gian mang màu tâm trạng được tác giả vẽ nên bằng những nét vẽ giản dị của ngôn từ mà khiến lòng người không khỏi xót xa, u khổ thơ đầu thấp thoáng bóng dáng con người nhưng còn mờ nhạt, thì khổ thơ thứ hai xuất hiện dấu hiệu của sự sống con người nhưng còn xa vắng, quạnh hiu"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."Giữa cái lơ thơ, đìu hiu nơi cồn nhỏ, tiếng con người thoáng xao động nhưng chẳng thể nào xua tan, lấn át được cái tịch liêu của buổi hoàng hôn trên sông. Thứ âm thanh xa xôi, nhạt nhoà, không rõ rệt càng làm cho nhân vật trữ tình thêm khao khát được gặp gỡ, chuyện trò và đồng cảm. Vậy mà, niềm mong mỏi ấy càng ngóng lại càng xa vời"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."Không gian được mở ra, dài rộng, cao, sâu đến ngợp trời. Các hình ảnh tương phản "Nắng xuống, trời lên", sông dài trời rộng, càng làm không gian thêm bao la, rợn ngợp, vô cùng. Sông nước mênh mông là vậy nhưng vẫn không thể nào che khuất nỗi buồn của tâm trạng, một chữ "cô liêu" ở cuối đoạn thơ đã lột tả hết tất cả nỗi buồn khôn nguôi nơi sâu thẳm đáy lòng thi sĩ, nỗi buồn không biết ngỏ cùng thơ Huy Cận đã rất tinh tế khi sử dụng những hình ảnh cổ điển sông, trời, thuyền, nước; lựa chọn thời gian lúc hoàng hôn gợi nỗi buồn kết hợp với những biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật lên bức tranh cảnh - tình. Hai khổ thơ đầu với 8 câu thơ vỏn vẹn trong 56 chữ, những mỗi chữ đều mang ý, mang tình trong đó. Khép lại đoạn thơ, người đọc không khỏi vương vấn với những nỗi buồn cùng thi các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của khảo thêmTop 40 mẫu mở bài Vợ chồng A Phủ hay Mở bài tác phẩm Vợ chồng A PhủCách bài trí ban thờ ngày Tết 2023 Cách trang trí bàn thờ gia tiên ngày TếtCâu chúc Tết 4 chữ Câu đối chúc Tết 2023Chúc mừng sinh nhật tiếng Anh hay nhất Chúc mừng sinh nhật bằng tiếng AnhCúng ông Công ông Táo ở đâu? Cúng 23 tháng Chạp ở bếp hay trên ban thờTop 6 mẫu phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối hay chọn lọc Nét cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tốiVăn khấn đi lễ Phủ Tây Hồ đầy đủ nhất Bài văn khấn Phủ Tây Hồ

mở bài phân tích tràng giang